Bà Tùng Long ( 1915-2006) có tên thật là Lê Thị Bạch Vân, là người con của đất Đà Nẵng. Bà tuy được sinh ra trong một gia đình bình dân nhưng gia đình nhỏ của mình lại tràn đầy cái chất văn chương. Chồng bà là nhà báo nổi tiếng Hồng Tiêu, bà có ba người con lần lượt là nhà thơ Trạch Gầm, hai nhà văn tài ba Nguyễn Đức Lập và Nguyễn Đông Thức.
Lớn lên ở vùng đất Đà Nẵng đầy nắng và gió, bà sớm kết thúc bậc tiểu học và có một vài năm học trung học ở trường Đồng Khánh, Huế. Sau này vào Sài Gòn, bà học trong ngôi trường Nữ sinh Gia Long, ngôi trường nổi tiếng xuất hiện thường xuyên trong những bản nhạc tình ca.
Từ năm 1952, bà bắt đầu làm giáo viên với cái nghề dạy Pháp văn cho học trò ở mấy trường Les Lauries, Tân Thịnh, Đạt Đức,… và làm nghề bút ký như một nghề tay trái kiếm thêm. Từ năm 1953, khi cộng tác với báo Sài Gòn Mới, bà sáng lập thêm một chuyên mục Gỡ rối tơ lòng nhằm tâm sự và bầu bạn với những độc già trẻ khắp mọi nơi về cuộc sống và tâm lý tuổi mới lớn. Những thời gian sau này, sức viết của bà ngày càng mạnh mẽ và dần dần bà trở thành một gương mặt thân thuộc và có tiếng tăm trong làng văn chương miền Nam và là một tay bút có nghề hẳn hòi. Vào mấy năm đầu thập niên 60, bà giữ chức Tổng thư ký Hội Phụ nữ Việt Nam Cộng hòa và đắc cử Dân biểu tỉnh Quảng Ngãi.
Về bút danh “Bà Tùng Long”, nhà văn đã chia sẻ những điều thú vị xoay quanh bút danh đặc biệt của mình: "Các vị nho học của chúng ta có câu: “Vân Tùng Long, Phong Tùng Hổ”, nghĩa là mây theo rồng, gió theo cọp, cho nên thuở xưa, người nào lấy biệt danh Tùng Hổ thì biết người ấy tên là Phong. Tôi tên Vân cho nên lấy bút danh Tùng Long. Còn ký bút danh Tùng Long, vì sợ độc giả hiểu lầm là đàn ông, nên tôi thêm chữ Bà vào để phân biệt. Lúc đầu tôi nghĩ là dùng tạm một thời gian, nhưng về sau tôi thấy cũng nhiều người dùng từ Bà trước bút danh, chẳng hạn như Bà Đạm Phương. Hồi còn trẻ, bà Đạm Phương thường dùng danh từ Đạm Phương nữ sĩ, và bà Tương Phố cũng dùng bút danh Tương Phố nữ sĩ. Riêng tôi, không dám tự hào là nữ sĩ, nên không thể ký vậy. Bên Pháp, cũng có hai tác giả nữ, là Madame Stael, Madame Maintenon, với từ Madame (Bà) đứng trước bút hiệu. Trong các mục Gỡ rối tơ lòng và Tâm tình cởi mở, tôi ký Bà Tùng Long là để gần gũi với phái nữ, các nữ độc giả sẽ tin cậy và dễ bộc lộ tâm tình hơn là chỉ ký Tùng Long, họ có thể nghĩ lầm tôi là phái nam thì sẽ ngần ngại”

Không chỉ có tài năng, sự tận tâm và trân trọng nghề nghiệp là những yếu tố giúp cho tên tuổi của bà trở nên nổi tiếng. Trở thành một nữ nhà văn có tầm trên khắp Việt Nam giữa những nam nhà văn quả là không dễ, nó đòi hỏi ở bà rất nhiều sự cống hiến và trân trọng nghề cầm viết. Mỗi con chữ bà viết nên thường là những trăn trở về cuộc sống thời cuộc đương thời- tuy giàu mạnh, êm đềm nhưng nhiều nỗi lo âu, những sự lo lắng của người trẻ về tương lai và tình cảm gia đình. Thời đỉnh cao về sự nghiệp cầm viết, có ngày bà phải viết 5 bài cho 5 kỳ feuilleton trên 5 tờ báo khác nhau. Và kết quả của những ngày làm việc miệt mài là một di sản đồ sộ gồm 68 cuốn tiểu thuyết, 400 truyện ngắn và hàng trăm bài báo lớn nhỏ khác nhau. Một thành quả to lớn mà không có ai có thể chạm được đến.
Ngày 26 tháng 4 năm 2006, bà mất tại nhà riêng trong vòng tay của những người thân yêu tại Sài Gòn. Cả đời của nhà văn Bà Tùng Long chưa bao giờ tự nhận mình là một nữ sĩ hay nhà văn chuyên nghiệp. Điều đó không nằm trong tiềm thức của những người yêu văn học và yêu mến bà. Trong hàng ngũ những nhà văn nổi tiếng, bà Tùng Long luôn có một chỗ đứng trang trọng và là một huyền thoại thực sự của văn chương Việt Nam, đi đầu và định nghĩa cho những người phụ nữ tài năng trong lĩnh vực của mình. Và riêng với tất cả những người luôn hoài niệm về một nền văn chương miền Nam yêu dấu, madame Lê Thị Bạch Vân hoàn toàn xứng đáng với danh xưng Nữ sĩ bà Tùng Long.
Lia Thia

Nhận xét
Đăng nhận xét