HỌC GIẢ TRẦN TRỌNG KIM: HIỀN TÀI TRĂM NĂM CÓ MỘT

Những kẻ không thông minh gọi ông là một cựu thủ tướng của một thể chế Việt Nam bị người Nhật nắm đầu. Người bình thường nói ông có vẻ hợp làm một ông giáo già, cần mẫn với việc dạy học xung quanh cuốn sách và cây viết sáng tác. Có người mang nhiều tiếc nuối thì nói ông là một học giả lỡ thời. Còn riêng mình, ông là một hiền tài, một tài năng mà Việt Nam may mắn sở hữu. Một vĩ nhân trong thế giới học giả Việt, trăm năm có một. 

Trần Trọng Kim (1883- 1953), sinh ra tại Hà Tĩnh, ông là một học giả có tiếng tăm của Việt Nam và từng giữ chức thủ tướng trong chánh phủ Đế quốc Việt Nam do đức vua Bảo Đại đứng đầu. Ông là tác giả của một loạt tác phẩm nghiên cứu về văn hóa và lịch sử Việt Nam, được chắp bút bởi bút hiệu Lệ Thần. Ông là một nhà tri thức được trọng vọng và tôn kính từ những bậc học giả trưởng bối cho đến những nhà nghiên cứu học thuật hậu sinh. Những nghiên cứu và bài viết của ông được lấy về và áp dụng cho giáo dục Việt Nam qua nhiều thời kỳ và các chánh thể chính trị khác nhau qua từng giai đoạn lịch sử. Hiện tại, những ấn phẩm của Trần Trọng Kim vẫn nhận được sự quan tâm rất lớn từ quần chúng và những học giả nghiên cứu, hơn nữa, nó vẫn mang hàm rất nhiều giá trị học thuật cho các thế hệ sau này và những tác phẩm ấy xây dựng một nền tảng cho các nghiên cứu sử học, văn hóa, địa lý Việt Nam.

Ông xuất thân trong một gia đình nhà Nho truyền thống, ông già thân sinh của ông là một Văn thân trong phong trào Cần Vương do Phan Đình Phùng lãnh đạo. Ông có một tuổi trẻ sôi nổi với con chữ và học thuật hơn là dành sự quan tâm vào những rối ren của xã hội đương thời. Năm 1897, ông thôi học chữ Hán để theo học Pháp văn tại trường Việt Pháp Nam Định. Năm 1990, ông thi vào trường Thông Ngôn và sớm tốt nghiệp sau ba năm học tập.

Năm 1905, sau một năm làm Thông sự tại Ninh Bình, ông tiếp tục thể hiện khao khát học thuật bằng cách xuất ngoại đến Pháp để học trường Thương mại Lyon. Trong khoảng thời gian lưu trú ở Pháp, học thêm tại các trường ở ArdècheLyon rồi tiếp tục học ở Trường thuộc địa. Năm 1909, ông vào học trường Sư phạm Melun và tốt nghiệp ngày 31 tháng 7 năm 1911 rồi về nước. 

Đến khi hồi hương về Việt Nam, ông trở thành một trong những nhà tri thức có tầm cỡ tại Việt Nam và bắt đầu công việc làm một ông giáo giản dị. Ông bắt đầu dạy học trung học và sư phạm, ít lâu sau ông được cất nhắc vào các vị trí quan trọng của giáo dục trong bộ máy chính phủ thời Pháp nhờ những đóng góp quan trọng cho việc tạo nên những thế hệ tri thức trẻ của quốc gia. Kể từ năm 1910, ông bắt đầu viết sách, những bài nghiên cứu của ông thường xoay quanh những bài viết về lịch sử, văn hóa của Việt Nam. Tận dụng những kiến thức đã học được tại Pháp, ông miệt mài trong việc nghiên cứu học thuật và nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng trong các hội đồng học thuật tại Việt Nam: Phó trưởng ban Ban Văn học của Hội Khai trí Tiến Đức, Nghị viên Viện Dân biểu Bắc Kỳ, Trưởng ban nghiên cứu Phật học của Hội Bắc kỳ Phật giáo. Có thể nói, Trần Trọng Kim là một trong những học giả hiếm hoi có xuất phát điểm là một nhà trí thức có một gốc rễ học vấn uyên thâm, một nhà giáo và một nhà nghiên cứu có uy tín và rất được trọng vọng trong những chức vụ dạy học từ những tầng lớp quần chúng người Việt và cả những tầng lớp người Pháp có mặt tại Việt Nam thời bấy giờ.

Năm 1943, khi người Nhật tiến vào Việt Nam, ông bỏ về đảo Chiêu Nam (Singapore) và bắt đầu cuộc sống xa quê hương lần thứ hai và sau đó ông được người Nhật đón về từ Băng Cốc năm 1945. Trong khoảng thời gian này, ông được đón tiếp nồng hậu bởi người Nhật và chính phủ hoàng gia Việt Nam. Họ ngỏ ý muốn ông làm việc trong chính phủ do người Nhật dựng nên và khi đó, từ một ông giáo bỗng nhiên ông trở thành một chính khách bất đắc dĩ. Và như một hiệu ứng domino, tuy biết là sẽ phải làm việc dưới sự chỉ huy và điều khiển của người Nhật, nhưng rất nhiều nhà tri thức thời ấy vì trọng vọng khí chất và uy tín của ông giáo Kim mà họ đến để làm việc trong chính phủ Đế quốc Việt Nam. Nhưng chỉ sau một vài tháng, họ mới vỡ mộng từ những mộng tưởng một Đại Đông Á hùng cườn từ người Nhật, hàng loạt thành viên ưu tú của nội các ông đồng loạt từ chức. Chính ông cũng phải mệt mỏi thừa nhận:

Nhật Bản trước vốn là một nước đồng văn đồng hóa ở Á Đông, nhưng về sau đã theo Âu hóa, dùng những phương pháp quỷ quyệt để mở rộng chủ nghĩa đế quốc của họ, trước đã thôn tính Cao Ly và Mãn Châu, sau lại muốn xâm lược nước Tàu và các nước khác ở Á Đông đã bị người Âu châu chiếm giữ. Người Nhật tuy dùng khẩu hiệu "đồng minh cộng nhục" và lấy danh nghĩa "giải phóng các dân tộc bị hà hiếp" nhưng thâm ý là muốn thu hết quyền lợi về mình"

Tuy vậy, để đích thân người Nhật mời ông vào chức thủ tướng của Đế quốc Việt Nam không phải là một điều giỡn chơi. Nó chứng tỏ ông là một người có tiếng nói và sự tôn trọng của rất nhiều tầng lớp quần chúng, và ông cũng đã cùng với những người đồng sự trong nội các làm hết mức có thể để đem lại một trật tự cho xã hội Việt Nam. Nhưng một mình Trần Trọng Kim là chưa đủ, đó là chưa xét đến năng lực chính trị của ông hoàn toàn không tương thích với năng lực học thuật của mình. Tuy tận tụy, nhưng ông cũng không thể làm gì để có thể ngăn cản những biến động lớn trong quốc gia, nạn đói 1945, những cuộc bạo loạn xảy ra khắp Việt Nam, những cuộc trốn chạy, di cư chiến tranh cứ thế xoay mòng mòng và trở thành những vấn đề nhức nhối khiến cho chính phủ của ngài Kim không thể quán xuyến. Ngay cả khi có thể thực hiện và can thiệp, ông không thể làm gì hơn vì người Nhật chưa đi khỏi Đông Dương, vì vậy mà quyền lực lãnh đạo của chính phủ Việt Nam bị người Nhật khống chế hoàn toàn. Thật đáng tiếc!

Khi phát xít Nhật sắp bại trận, ngày 8/5/1945, Trần Trọng Kim vẫn còn phải ra bản tuyên cáo, yêu cầu quốc dân:"phải giữ vững cuộc trị an trong nước và chịu những hy sinh cần thiết để cho quân đội Nhật Bản được chúng ta tận tâm giúp đỡ về mặt tinh thần và vật chất. Nền độc lập của chúng ta có như thế mới vững bền". Sau khi người Nhật thất bại, trừ Nam Kỳ và một số tỉnh duyên hải, Việt Nam nắm quyền kiểm soát nhiều khu vực tại miền Bắc và Trung kỳ và thủ tướng Kim phải thừa nhận sự giải thể của nội các của mình. Tuy vậy, thủ tướng Trần Trọng Kim vẫn được đối đãi hết sức nồng hậu và được tôn trọng đúng với tư cách của một học giả có tầm ảnh hưởng.

Vào tháng 6- 1946, ông đến Hồng Kông để gặp vua Bảo Đại và có một khoảng thời gian sống và làm việc tại Quảng Châu và Hồng Kông. 06-02-1947, ông về Sài Gòn và lại được đón chào bởi người Pháp vì họ muốn ông nắm giữ một chức vụ quan trọng trong một nội các mới. Ông thất vọng và từ chối để qua Nam Vang sống với con gái của mình năm 1948. Sau một khoảng thời gian sau đó, ông trở về Việt Nam sống thầm lặng và mất tại Đà Lạt năm 1953 do bị đứt mạch máu.

Để nói về cuộc đời của Trần Trọng Kim, ta chỉ có thể nói đến ông là một học giả tri thức và có tiếng nói rất lớn trong lĩnh vực học thuật Việt Nam. Nhưng tài năng của ông lại lọt thỏm ngay chính cái giai đoạn rối ren của xã hội, thời cuộc bấp bênh khiến cho ông không thể được ngồi yên viết sách và hành nghề nhà giáo. Ông được mời để đứng đầu hết hội nhóm này đến các nội các lâm thời nọ. Cũng vì chỉ có mình ông là người trí thức đáng tin cậy nhất mà quần chúng có thể tin tưởng được, nên những kế hoạch cách mạng luôn được xướng tên ông như một sự tin tưởng vào tri thức và năng lực của ông. Nhưng sự thật thì vẫn là sự thật, ông không thể một mình một ngựa chỉ dùng tri thức nhà giáo để xoay chuyển thời cuộc và cũng không thể phủ nhận rằng có nhiều biến động lớn đã xảy ra chỉ vì ông nhà giáo Kim bất lực vì “hữu danh vô thực”, không thể làm gì và cũng không biết nên làm gì. Một đóa hoa đại diện cho giới tinh hoa của tri thức Việt bị nở nhầm thời và một sự đáng tiếc khi những trăn trở về chính trị của ông không được hoàn thành trọn vẹn.

Không có một sự nghiệp chính trị suôn sẻ, nhưng sự nghiệp nhà giáo của ông đạt được nhiều thành tựu đáng ngưỡng mộ. Viết sách từ năm 1910, bắt đầu xuất bản năm 1914 và ông vẫn miệt mài viết những bản thảo, tác phẩm nghiên cứu, những bài bình luận đều đều cho đến tận năm 1943. Qua đó, để lại một di sản đồ sộ những tác phẩm phi hư cấu mang nhiều giá trị học thuật, hữu ích và là nền tảng cho mọi kế hoạch giáo dục của người Việt đến tận bây giờ. Dù trong nước hay ngoài nước, ông đều giữ thói quen viết và nghiên cứu chỉ để cống hiến cho học thuật của Việt Nam. Ông giáo Kim cũng là người đầu tiên xuất bản một tác phẩm nghiên cứu chính sử Việt Nam bằng chữ La tinh- cho đến giờ vẫn là một biểu tượng học thuật tại Việt Nam. Những đóng góp của ông về mặt giáo dục thì không phải bàn cãi vì nó đặt những nền móng cho một tri thức Việt phát triển thịnh vượng sau này.

Phan Bội Châu với phương châm theo Nhật và bảo hoàng, Phan Châu Trinh mang tinh thần liên bang tự trị như các nước châu Âu bấy giờ và còn nữa nhiều nhà tri thức đáng kính mang khát vọng khai phóng sự tự do của người Việt. Chỉ riêng Trần Trọng Kim là người duy nhất không mang khát vọng ấy, ông mang sự mong mỏi của quần chúng, đúng hơn là sự trăn trở của chính ông, muốn khai phá tri thức Việt và đưa đến những giá trị thuần Việt đích thực hơn là những kế hoạch chính trị. Chỉ có nền móng của một tri thức và tư duy của một quốc dân, thì xã hội và quần chúng mới lớn mạnh, văn minh, một suy nghĩ tưởng chừng rất đơn giản nhưng không hề dễ thực hiện. Cũng vì những cống hiến ấy mà Trần Trọng Kim rất được người đương thời kính nể và trọng vọng ông, và cũng bởi những sự đóng góp của ông, nền móng về một sự phát triển xã hội mới có thể được hình thành. Vì vậy, không ngoa và không quá lời khi nói rằng học giả Trần Trọng Kim chính là một bông hoa tri thức trăm năm có một mà Việt Nam đã từng may mắn có được sự cống hiến của ông.

Lia Thia

Nhận xét