NHÀ VĂN VÀ NHỮNG NGHỀ TAY TRÁI

Có một sự thật đáng huhu từ cổ chí kim tới giờ rằng thiệt tình không có quá nhiều nhà văn có thể sống một cuộc sống khá giả cho tới giàu với cái nghề “nghệ sỹ văn học” (tất nhiên là vẫn có nhưng nếu so với con số còn lại thì quả là một tỷ lệ chênh lệch rất lớn). Nhuận bút cho mỗi tác phẩm văn học hoặc nghiê cứu thường đi theo với tỷ lệ phần trăm các đầu sách xuất bản, vì vậy không thể trông chờ và dựa hoàn toàn cuộc sống cá nhân của mình vào lợi tức phần trăm ấy, thêm một điều khó khăn nữa để có thể viết được một tác phẩm tâm đắc phải tính mốc thời gian làm việc lên đến hàng năm. Sau tất cả, cũng sẽ không lạ gì khi nhiều nhà văn sẽ cố gắng tìm kiếm thêm một cái nghề tay trái để thủ trong người. Và bài viết của Lia Thia tôi hôm nay sẽ giới thiệu tới quý bạn những nghề tay trái của các nhà văn với đầy đủ yếu tố độc đáo và lạ lẫm.





Herman Melville


Trước khi có được tác phẩm lớn đầu tiên: Typee: A Peep at Polynesian Life tại New York 1846. Ông từng là một nhân viên ngân hàng ở Albany năm 1832 và có một khoảng thời gian ngắn làm giáo viên tiếng Anh. Những khoản thời gian sau, ông không nhập ngũ mà xin vào tàu để làm công việc săn cá voi. Một công việc thú vị, phiêu lưu và là chết xúc tác cho những tác phẩm nổi tiếng sau này của ông.


Vladimir Nabokov 


Nabokov đã xuất bản một số truyện và tiểu thuyết bằng tiếng Nga khi tị nạn đến Mỹ vào năm 1940. Gia đình ông đến sống Massachusetts, ông có một chân trong bảo tàng Động vật học tại đây. Ông cũng dành khá nhiều thời gian để nghiên cứu và tìm hiểu các mẫu vật bướm đêm và cuốn tiểu thuyết Lolita được ra đời vào những khoảng thời gian này, năm 1945.

 

Jack London


Ở tuổi niên thiếu, Jack đã sớm thành thạo và lành nghề với công việc “Hàu tặc”, tại thời điểm ấy hàu từ Bờ Tây, vịnh San Francisco trở nên rất đắt đỏ và ưu chuộng. Vì vậy không lạ gì mà tuổi thơ không mấy khá giả được bổ sung bằng một công việc thời thượng bấy giờ. Sau đó Jack làm công việc săn hải cẩu Thái Bình Dương tại Nhật Bản khi gia nhập Cơ quan tuần tra Thủy sản California. Cũng từ khoảng thời gian ấy, ông viết một bài tường thuật Typhoon off the Coast of Japan kể về khoảng thời gian làm việc tại Nhật.


Arthur Rimbaud


Sau khi tham gia Công xã Paris (1871) năm 17 tuổi, Arthur trải qua một cuộc sống bất định, một giang hồ lãng tử rày đây mai đó trên khắp châu Âu, từ Paris, Luân Đôn, Bỉ, Áo cho đến khi ông sung làm lính lê dương của Hà Lan đánh trận tại Indonesia. Từ những năm 1880, ông trở thành tay buôn vũ khí, cà phê, da thú xuyên suốt từ Phi châu, Trung Đông qua các ngã nước châu Âu.


George Orwell


Không ai là không biết hai tác phẩm kinh điển về chủ đề Dystopia: 1984Trại súc vật của Orwell cả. Vào những năm đầu thập niên 20 thế kỷ XX, ông từ Anh đến Ấn Độ để gia nhập vào hàng ngũ “cảnh sát đế quốc Anh” và có khoảng thời gian làm việc tại Miến Điện. Sau khoảng thời gian khá dài làm việc tại châu Á và mắc bệnh sốt xuất huyết, ông mới quyết định từ bỏ hẳn nghề cảnh sát để về Anh và chuyên tâm vào cái nghiệp văn của mình. Hai tác phẩm Burmese Days (1934) và Shooting An Elephant (1936) tường thuật lại khá rõ ràng về cuộc sống của ông và người châu Á tại thời điểm đó.


John Steinbeck


John Steinbeck từng là hướng dẫn viên du lịch và người chăm sóc tại một trại sản xuất cá giống ở Hồ Tahoe trước khi ông gặp người vợ đầu tiên của mình, Carol Henning, vào năm 1928. Cặp đôi sớm kết hôn và bắt đầu kinh doanh sản xuất ma nơ canh bằng thạch cao trong cùng năm rằng cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông, Cup of Gold (1929), đã được xuất bản. Khi công việc kinh doanh thất bại, cha mẹ của Steinbeck đã hỗ trợ ông hết mình về mặt tài chính hết sức có thể trong khi anh cố gắng trở thành một nhà văn.

Lia Thia

Nhận xét