Triều Châu là một huyện ở phía đông của tỉnh Quảng Đông, bắc giáp Phúc Kiến. Tức là vùng Triều Châu-Sán Đầu và Kiết Dương ngày nay là vùng đất sỏi đá, khô cằn. Người Triều Châu cổ đại là một phân chi của dân tộc Bách Việt, gọi là người Mân Việt. Theo tương truyền trong gia phả của người Triều Châu ở Phúc Kiến thì tổ tiên họ xưa từ vùng Hoàng Hà (Trung Nguyên) di cư xuống Phúc Kiến. Huyện lỵ Triều Châu đã hưng thịnh từ rất sớm, thời nhà Tùy là quản hạt của cả Việt Đông (tỉnh Quảng Đông ngày nay). Người Triều Châu giỏi buôn bán, ở Trung Hoa người Triều Châu được mệnh danh là “Do Thái của Trung Quốc”.
Đến đời nhà Đường, người Phúc Kiến nhiều lần lấn át dân Triều Châu, cướp đất của người Triều Châu đã khai phá. Do đó phong tục Triều Châu từ đó cấm tất cả các cuộc hôn nhân Triều Châu – Phúc Kiến. (Cần kiểm chứng).
Người Triều Châu di cư ra nước ngoài là từ thời nhà Minh, nhưng ồ ạt nhất là thời nhà Thanh. Sau thời Ung Chính, Càn Long, đời sống xã hội và sản xuất nông nghiệp ở Triều Châu cực kỳ khốn khó. Vì vậy mà những nhóm lớn người Triều Châu phải di cư xuống các nước Đông Nam Á làm thuê cho các hầm mỏ đồn điền thực dân. Người bỏ đi nhiều đến nỗi dân số còn lại ở huyện Triều Châu giảm hẳn, còn 1.405.180 người (theo thống kê thời Khang Hy 19, năm 1680, thực tế thì còn khoảng gần 2 triệu người). Đến thời Quang Tự thì dân số ở Triều Châu tăng lên 4.300.000 người.
Người Triều Châu hiện nay có ở Triều Châu, Phúc Kiến, Sán Đầu, Hồng Kông, Áo Môn, Đài Loan và nhiều nơi trên thế giới như Việt Nam, Thái Lan, Singapore, Malaysia, Indonesia và các nước phương Tây. Với tổng số khoảng 20 triệu người và vẫn nói tiếng Triều Châu. Tuy nhiên ngày nay Người Triều Châu ở Trung Quốc thì còn khoảng 3.7 triệu người.
Tiếng Triều Châu đều thuộc hệ phương ngữ Mân Nam của Phúc Kiến (Nam Phúc Kiến, Hạ Môn, Đài Loan,..). Tiếng Tiều rất khó học, nhất là hiện tượng biến âm. Lại không có trường dạy tiếng Tiều vì thế không được phổ thông như tiếng Quảng Đông hay Quan Thoại, 50% từ vựng tiếng Tiều không viết ra được Hán Tự. Nói chung tiếng Triều Châu, tiếng Quảng và tiếng An Nam đều thuộc nhóm ngôn ngữ Bách Việt, vì vậy sự khác nhau và tương đồng rất rõ rệt và gần gũi.
Thí dụ:
Tiếng Quảng: Dắt Dì Xám Xay Ửng Lục
Tiếng Tiều: Chếch Nò Xa Xí Ngầu Lác...
Tiếng Nam: Nhất Nhị Tam Tứ Ngũ Lục ... tới quan chung tiền (xạo ke vui thôi)
Vì thế tiếng Tiều chỉ được Lưu truyền trong nhà và các Hội quán người Triều Châu. Trong các hội đồng hương của người Tiều, họ đều đang quan tâm đến ngôn ngữ của mình một ngày nào đó sẽ được công nhận là một trong những nhóm ngôn ngữ phổ biến tại Nam Kỳ. Cùng với những sự đóng góp văn hóa và tập quán từ các nhóm dân người Hoa, người Khơ me thì chúng ta mới có thể có một sự đa dạng văn hóa tại miệt Nam Kỳ nói chung và Sài Gòn- Chợ Lớn nói riêng.
Lia Thia

Nhận xét
Đăng nhận xét