TÌNH YÊU ĐỒNG TÍNH: CUỘC SỐNG BI KỊCH CỦA NGƯỜI VĂN NHÂN

Nhà văn, nhà thơ, biên kịch gia là những nghệ sĩ thực thụ của văn chương, những tác phẩm văn nghệ của họ luôn gây bao nhiêu thổn thức cho bao nhiêu con tim độc giả vì chất văn lãng mạn, nhẹ nhàng và trìu mến. Vì vậy mà ta cũng có thể mường tượng được cảm xúc, tình yêu chính là thứ gia vị thôi thúc những nhà văn tạo ra những áng văn chương bất hủ. Nhưng không phải loại tình yêu nào cũng được chấp nhận và nhà văn nào cũng sẽ được nhận những sự cảm thông trong tình cảm riêng tư của mình. Trong đó những cuộc tình đồng tính luôn bị những ánh nhìn ác độc soi xét, đồng tính từng bị xã hội khinh ghét vì bị coi như những căn bệnh. Từ đó, có rất nhiều bi kịch, vừa đau lòng, vừa gây tiếc nuối cho công chúng. Chúng ta sẽ cùng xem thử những bi kịch đã đến như thế nào trong cuộc đời của các nhà văn tài hoa này nhé.


Oscar Wilde  Alfred Douglas: Vụ kiện Eensberry nổi tiếng

Oscar Wilde là một nhà văn tài năng sinh ngày 16-10-1854 tại Dublin, Ái Nhĩ Lan trong một gia đình phong lưu, giàu có. Ông là một nhà thơ, nhà biên kịch và là nhà văn tài năng đại diện cho tinh hoa văn học cùa đất nước Ireland. Ông được học dưới một nền giáo dục tiên tiến của giới quý tộc, ông còn sữ dụng thành thạo tiếng Pháp và Đức. Năm 1878, ông trở về Dublin sau khi tốt nghiệp để dồn sức cho việc làm thơ, giảng dạy. Ông đạt đến đỉnh cao khi các tác phẩm của ông xuất hiện với tần suất thường xuyên trên các tạp chí lớn nhỏ từ năm 1878-1881. Thật buồn vì ông là một người đồng tính, và tại một xã hội chỉ đang dần bước lên sự phát triển hiện đại, người đồng tính hầu như không có tiếng nói. Ông tìm cách chạy trốn, che dấu đi thân phận của mình bằng cách kết hôn với một người phụ nữ, Costance Mary Lloyd nhưng cũng sớm tan vỡ vì trái tim ông không dành cho người phụ nữ ấy.

Năm 1891, Oscar Wilde gặp gỡ Alfred Doughlas, con trai của hầu tước Queensberry và hầu như hai người luôn thừa nhận mối quan hệ này không một chút giấu diếm. Họ có một cuộc tình thật đẹp và tốn quá nhiều giấy mực của giới báo chí. Quá nhục nhã, hầu tước Queensberry lăng mạ, nguyền rủa Oscar để ông tránh xa khỏi con trai hầu tước. Oscar Widle đâm đơn kiện hầu tước và hầu tước cũng kiện ngược lại ông vì tội đã rù quyến con trai mình vào những căn bệnh đáng ghê tởm. Đáng buồn thay ông bị kết án hai năm khổ sai. Trong tù, ông vẫn viêt thơ cho người yêu mình và còn sáng tác ra tác phẩm kinh điển nhất trong cuộc đời: The balladin Reading Gaol. Ông mất ngày 30-11-1900, đám tang của ông do chính Alfred chủ trì.

 

Virginia Woolf và Vita Sackville

Virginia Woolf sinh năm 1882 trong một gia đình tri thức tân thời, cha của bà là một cây bút có danh tiếng tại nước Anh. Gia đình bà là một gia đình tri thức kiểu mẫu nhưng cũng không nằm ngoài việc bị ảnh hưởng bởi những giá trị đạo đức dương thời. Và bà vẫn chịu sự nghiệm khắc, bà không được đến trường và nơi có thể giúp bà học tập duy nhất đến từ thư viện trong nhà của cha bà và những buổi trà đạo với những người bạn tri thức của ông. Nhưng cuộc sống của bà không hề dễ dàng do những biến cố lớn từ gia đình, mẹ và cha lần lượt qua đời, bà bị anh trai cùng cha khác mẹ hãm hại sau sự ra đi của mẹ.

Bà bỏ nhà đi đến Luân Đôn để lập nghiệp và tham gia trong nhóm văn học Bloomsbury, một nhóm nhà văn với phương châm đề cao sự tự do và đi ngược lại với những chuẩn mực méo mó của xã hội hiện tại. Năm 1912, bà kết hôn với Leonard Woolf và có những tháng năm hạnh phúc với “chàng Do Thái không một xu dính túi”. Tuy nhiên, Virginia sớm nhận ra bà không cảm thấy quá mãn nguyện trong chuyện tình yêu nam nữ. Năm 1922, bà gặp nữ nhà văn Vita Sackville-West và bắt đầu có một mối tình say đắm với “nàng thơ” của mình mặc cho “nàng thơ” cũng có gia đình. Nhưng cũng từ thời gian này, bà hoạt động sôi nổi, những tác phẩm của bà trở nên ngày một hoàn hảo hơn. Mrs Dalloway (1925), Orlando (1928), A Room of Onw’s Own (1929), những tác phẩm nổi tiếng xuất hiện cùng thời điểm mối tình của hai người trở nên thắm thiết và những đầu sách của bà lại được công chúng hân hoan đón nhận. Thế nhưng mối tình gây xôn xao 5 năm của bà kết thúc nhưng không ai có thể biết được lý do. Tháng 03-1941, bà gieo mình xuống dòng Ouse tự tử sau một thời gian rất dài chống chọi với căn bệnh trầm cảm hơn 20 năm.


Thomas Mann: Tình cảm được chôn giấu trong những tác phẩm

Thomas Mann sinh năm 1875 tại Lübeck, Đức trong một gia đình thương gia. Ông thừa hưởng tình yêu nghệ thuật, đặc biệt là âm nhạc từ người mẹ của ông. Sau năm 1881, gia đình ông dọn đến sống tại thành phố München, nơi ông bắt đầu làm thơ và viết truyện ngắn. Vào năm 1905, ông kết hôn và có 6 người con, tuy sống trong một gia đình êm ấm nhưng trái tim ông chỉ luôn hướng về những chàng trai vị thành niên, một tình yêu sâu thẳm mà ông luôn giữ chặt trong trái tim mình. Tình yêu ấy luôn được thể hiện ở rất nhiều trong các sáng tác của mình tiêu biểu là Der Tod in Venedig (1913).

Cuộc đời ông bắt đầu lâm vào biến động khi chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, nó đã đẩy nhà văn vào một cuộc khủng hoảng tinh thần trầm trọng. Ông viết tập ký 600 trang Betrachtungen eines Unpolitischen (1918) trong thời gian này. Sau chiến tranh ông trở lại với văn học nghệ thuật, hoàn thành một trong những đỉnh cao sáng tác của mình là Der Zauberberg. Năm 1929 ông được nhận giải Nobel, chủ yếu vì bộ tiểu thuyết vĩ đại Buddenbrooks - Verfall einer Familie

Khi Hitler nắm quyền vào những năm 1930, ông bị tước bỏ quyền công dân Đức và bằng tiến sĩ danh dự được trao tặng cho ông vào năm 1919. Ông quyết định rời bỏ nước Đức như một hành động để chống đối lại chế độ quốc xã. Ban đầu ông sống tại Sanary-sur-Mer ở Pháp, nhưng sau cùng ông lại dọn về Zürich, Thụy Sĩ nhưng lại gặp những trắc trở. Từ tháng 8-1933, những người Đức lưu vong như Thomas không hề được cấp quốc tịch Đức, và vì thế ông cũng không còn có thể được cấp giấy phép để tị nạn tại châu Âu một cách dễ dàng. Mãi đến năm 1938, ông mới sang được Mỹ và trở thành công dân tại đấy (1944). Sau chiến tranh, ông được cả Đông Đức và Tây Đức đón tiếp long trọng nhưng ông quyết định lưu lại Zürich để tiếp tục hoạt động nghệ thuật. Tại Zürich, tài năng sáng tác của ông dường như vẫn còn vẹn toàn và còn đạt được nhiều đỉnh cao trong tác phẩm của mình tiểu biểu là Lotte in Weimar (1939), Doktor Faustus (1947).


André Gide: Kẻ vô luân trước “khung cửa” hẹp

Gide sinh năm 1869 tại Paris trong một gia đình trung lưu theo tin lành. Năm 21 tuổi, ông bắt đầu có sáng tác đầu tay với tự truyện Les cahiers d'André Walter, viết bằng thơ và văn xuôi đầy chất thơ, kể về sự giằng xé, giày vò giữa thể xác và tâm hồn và sự tìm kiếm lối thoát trong các hình thái thần bí và thanh cao của tình yêu. Và ông gây chú ý nhưng với văn phong phóng đãng, và tự do trong việc thể hiện sự tính dục trong tác phẩm của mình.

Những năm 1893-1894 André Gide du lịch sang Algérie và Tunisia, nơi ông phát hiện ra mình là người đồng tính và chính phát hiện này đã khiến ông trở nên rối loạn cảm xúc. Ông đã có một mối tình và hôn nhân với cô em họ Madeleine Rondeaux, tuy đã danh chính ngôn thuận trong mối hôn nhân vợ chồng nhưng ông cũng không ngừng tìm kiếm những mối tình đồng tính. Gide lao vào những cuộc chơi tình ái sa đọa, và ông cũng không nề hà khi phô bày nó trên những trang giấy do chính mình viết. Vì thế mà cũng không ít người tỏ ra ghét ông vì họ cho rằng những tác phẩm của ông có quá nhiều giá trị sai lệch, bệnh hoạn, không khác gì một loại thuốc độc. Nhưng, ông vẫn đoạt giải Nobel năm 1947, năm 1951, ông qua đời tại Paris.


Colette: Nụ hôn Paris gây bão

Nữ sĩ Colette sinh năm 1873 tại Yonne, Pháp. Bà nổi tiếng với tác phẩm Gigi (1944) mà sau này được Alan Jay Lerner và Frederick Loewe biên soạn cho cuốn phim và vở nhạc kịch cùng tên. Năm 1890, bà kết hôn với nhà văn Henry Gauthier-Villars lớn hơn bà tận 15 tuổi nhưng hai người sớm ly dị vào năm 1906 vì chồng mình không chung thủy. Sau đó, bà có một cuộc tình chóng vánh và một tình bạn bí mật với nữ nhà văn người Mỹ Natalie Clifford Barney.

Ngoài việc sáng tác, Colette còn làm việc ở các phòng nhạc Paris, dưới sự bảo trợ của nữ hầu tước Mathilde de Morny, biệt danh Missy. Và tất nhiên là hai người có một mối quan hệ đồng tính lãng mạn, thắm thiết. Thị phi bỗng nhiên bủa vây lấy bà vào năm 1907, Colette và Morny đã cùng góp mặt trong một vở kịch câm Rêve d'Égypte ở Moulin Rouge. Trong bối cảnh ấy, Colette đã đặt một nụ hôn nồng thắm trên môi của người tình với việc cảnh phim giả nhưng tình yêu thật. Nụ hôn trên sân khấu của họ chân thật và mãnh liệt đến mức gần như gây ra một cuộc náo loạn, đến nỗi người ta phải gọi cảnh sát tới để lập lại trật tự. Do vụ bê bối này, buổi trình diễn tiếp theo của vở Rêve d'Égypte đã bị cấm diễn, và họ đã không có thể sống chung với nhau một cách công khai, mặc dù mối quan hệ của họ vẫn tiếp tục trong năm năm sau đó.Trong thời gian này, Colette cũng có quen biết và quan hệ tình dục khác giới với nhà văn người Ý Gabriele d'Annunzio.

Năm 1912, bà tái hôn với Henri de Jouvenel, biên tập viên báo Le Matin, hai người sớm có với nhau một đứa gái nhưng bà đã đem gửi và rất ít khi đến thăm. Trong thế chiến thứ nhất, bà nhận huy chương Bắc đẩu bội tinh vì đã biến bất động sản của chồng thành những bệnh viện dã chiến để chữa trị cho những thương binh. Năm 1924, bà li dị lần thứ hai sau một vụ dan díu với đứa con 17 tuổi của chồng, Bertrand de Jouvenel. Trong thế chiến thứ hai, bà tiếp tục ở lại Paris mặc cho Đức quốc xã chiếm đóng, và Gigi ra đời trong thời gian này. Bà mất vào năm 1954 và để lại một di sản đồ sộ với hơn 50 cuốn tiểu thuyết, và những bộ phim, vở kịch được phỏng tác theo tiểu thuyết của bà đã trải dài từ năm 1917 cho đến tận ngày nay.


Arthur Rimbaud và Paul Verlaine: Tình yêu vô vọng

Rimbaud sinh năm 1845 tại Charleville, ông lớn lên trong một gia đình nghiêm khắc và mộ đạo. Chính vì vậy cũng không quá bất ngờ khi cậu bé Arthur có tính cách nổi loạn, khao khát tự do. Năm 15 tuổi, ông bỏ nhà ra đi và được mọi người gọi với cái tên “Kẻ mang đôi chân có đế giày gió”.

Paul Verlaine sinh năm 1844 tại Metz trong một gia đình có truyền thống quân đội. Paul được tiếp xúc với văn chương rất sớm khi 14 tuổi ông đã có thể bắt đầu viết những bài thơ nhỏ. Năm 1851, gia đình ông đến Paris, ông theo học luật nhưng suốt ngày chỉ biết say sưa với rượu bia và thường xuyên phải nhập viện.

Thời gian sau đó là những năm tháng tình ái của ông với nhà thơ trẻ Arthur Rimbau. Đây là quãng thời gian Verlaine viết những bài thơ hay nhất của mình. Năm 1874 ông in tập thơ Romances sans paroles. Họ quyết định rời Paris để đến Luân Đôn tận hưởng cuộc sống, nhưng vì không thể chịu được bản tính nóng nảy của Paul, Arthur bò đi và đến Brussel. Tháng 10 năm 1873, hai người gặp nhau tại Brussel, hai người họ có một trận tranh cãi gay gắt Verlaine đã dùng súng lục bắn vào tay Rimbaud nên bị vào tù hai năm và bị phạt 200 frans. Sau khi mãn hạn tù Verlaine bị vợ và gia đình từ chối nên ông sang Anh dạy tiếng Pháp, dạy vẽ, và làm gia sư. Năm 1882 ông trở về Pháp sống và làm việc ở nhiều nơi. Những năm cuối đời, ông nằm viện nhiều hơn tại nhà và qua đời vào năm 1896 tại Paris.

Còn Arthur, ông trở về và trứ tác tác phẩm Une Saison en Enfer (1873), như một lời để dành tặng cho Paul. Tháng 2 năm 1891 bị bệnh ung thư xương chân, đến tháng 10 ông qua đời ở Marseille vào tuổi 37.

Lia Thia

Nhận xét