ALBERTO MORAVIA: ĐÓA HOA CỦA THẾ HỆ Ý QUỐC LẠC LỐI HẬU PHÁT XÍT

Để trở thành một nhà văn của chủ nghĩa hiện thực, bạn phải " có trong mình một tư tưởng đạo đức, một thái độ về chính trị, xã hội học và triết học rõ ràng". Đó là những lời chia sẻ của nhà văn Alberto Moravia khi chia sẻ về trách nhiệm khi trở thành một văn nhân, đặc biệt là nhóm nhà văn hiện thực, nhóm người là tiếng nói trực tiếp phản ảnh chân thực nét thăng trầm của thời đại đương thời. Alberto Moravia được xem là một nhà văn tiêu biểu cả trong lẫn hậu giai đoạn phát xít Ý đang hoành hành trên khắp quê hương mình, ông là một nhà văn tiêu biểu của chủ nghĩa hiện thực, phản phát xít, chủ nghĩa hiện sinh và là nhà văn giỏi dùng những từ ngữ bình dân, mộc mạc cho những cuốn tiểu thuyết tự sự đầy chất nội tâm. 

Alberto Moravia (1907-1990) tên thật là Alberto Pincherle, ông sinh ra trong một gia đình trung lưu giàu có nhưng gia đình của ông lại là một mối phức tạp bởi vòng xoáy của chính trị Âu châu lúc bấy giờ. Hai người anh em trong nhà, Carlo Rosselli và Nello Rosselli là những người chống phát xít nhiệt thành, và là người sáng lập phong trào Công lý và tự do nhưng kém may mắn khi bị Benito Mussolini ra lệnh hành quyết tại Pháp năm 1937. Ngược lại thì chú ruột của ông, Augusto De Marsanich lại là thứ trưởng nội các trong đảng phát xít Ý, về sau thì cũng nhờ chú ruột mà nhà văn Moravia có thể có một cuộc sống tạm yên ổn, không bị phát xít truy sát so với những gì mà ông đã đấu tranh với bọn phát xít Ý trên mặt trận truyền thông, tư tưởng.

Alberto Moravia

Alberto đã từng nói cuộc đời ông có hai mối bận tâm, chủ nghĩa phát xít và căn bệnh nhiễm trùng xương. Cũng chính vì căn bệnh nhiễm trùng này mà ngay từ lúc nhỏ ông không có may mắn được đến trường như bao đứa trẻ đồng trang lứa khác. Trong khoảng thời gian tự học ở nhà kèm những kế hoạch điều trị bệnh tình, ông đọc và tìm hiểu rất nhiều về văn chương và triết học, của Giosuè Carducci, Nikolai Gogol, William Shakespeare, Giovanni Boccaccio, James Joyce, Fyodor Dostoevsky,.... những nghệ sĩ văn học và triết gia đã xây đắp cho ông một nội hàm và tri thức học thuật ngay từ khi còn nhỏ. Ngoài ra ông cũng có thể nói được tiếng Đức và Pháp. 

Năm 22 tuổi, ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên Gli indifferenti (1929) của mình. Năm 1927 ông bắt đầu sự nghiệp phóng viên của mình cho tạp chí 900 và từ đó cuộc sống văn nhân của ông vẫn luôn phong phú với những tác phẩm ra mắt ổn định tuy không đều đặn từng năm. Cuốn tiểu thuyết Gli indifferenti được ông tự xuất bản với giá 5.000 lia Ý và được các nhà phê bình là một tác phẩm điển hình cho thể loại cho tiểu thuyết tự sự vốn là dòng tiểu thuyết rất nổi tiếng đương thời. Năm 1933, ông bắt đầu làm việc dưới danh nghĩa là nhà phê bình văn học cho các tạp chí văn học như Caratteri và Oggi, song song đó ông cũng viết bài cho tờ báo Gazzetta del Popolo nhưng công việc không phải lúc nào cũng ổn định. 

Trong những tháng năm chiến tranh, cuộc sống và công việc ông trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Các tác phẩm của ông chứa nhiều thông điệp tẩy chay phát xít khiến cho rất nhiều tác phẩm của ông bị cấm xuất bản, bị thu giữ bản thảo còn những bài phê bình của ông thì cũng bị dẹp đi. Để tiếp tục công việc, ông viết theo phong cách siêu thực và ngụ ngôn, cho đến khi La mascherata (1941) thì ông chỉ còn viết với bút danh chính của mình. Khoảng thời gian ấy, ông kết hôn với Elsa Morante và cả hai người đến sống tại Capri nơi ông đã viết cuốn Agostino (1945) cho đến ngày đình chiến thì hai vợ chồng tị nạn tại Frosinone.

Vợ chồng Alberto và Elsa

Trở về Rome sau khi thành phố ngàn năm được giải phóng, sự nghiệp của ông cũng vì thế mà như được cởi bỏ xiềng xích. Khoảng thời gian sau thế chiến là khoảng thời gian thành công nhất trong cuộc đời của ông, ở một độ tuổi chín muồi của cuộc đời con người và cuộc đời của một nhà văn, ông sáng tác liên tục từ năm 1947-1951 và phần thưởng xứng đáng cho sự đóng góp của ông là giải thưởng văn học danh giá nhất của Ý; Premio Strega (1952). Trong khoảng thời gian ấy, các tác phẩm của ông được các đạo diễn đua nhau dựng thành phim và trong năm 1953, ông cũng sở hữu riêng cho mình một tạp chí văn học Nouvi Argomenti. Trong những năm tiếp theo của thập niên 50, ông viết và phê bình điện ảnh hàng tuần cho các tạp chí lớn của nước Ý, những bài bình luận của ông được thu lại trong tác phẩm Al Cinema (1975).

Sau giai đoạn đỉnh cao của mình tại quê nhà, ông bước vào độ tuổi trung niên với nhiều chuyến đi trải nghiệm qua các quốc gia, châu lục khác nhau. Từ châu Phi, Trung Nhật Hàn và những cuộc trải nghiệm là những cảm hứng mới cho các sáng tác sau này và những bài báo phân tích, phỏng vấn về trải nghiệm của mình. Ở tuổi 77, ông được bầu vào nghị viện châu Âu dưới tư cách là một đảng viên đảng Cộng sản Ý. Tháng 9-1990, Moravia mất tại nhà riêng ở Rome và trong cùng năm đó thì Bompiani đã xuất bản cuốn tự truyện Vita di Moravia nói về cuộc đời thăn trầm của Alberto Moravia.


Nói về những đóng góp của Alberto Moravia cho nền văn học Ý, ta chỉ có thể nói đến ông bằng một từ "nhiệt huyết". Nhờ làm việc trong môi trường văn chương trong suốt sự nghiệp mà lúc nào ông cũng có thể tìm kiếm được niềm cảm hứng mới để trứ tác, ngoài ra những chuyến di dời trong cuộc đời, cả những ngày chiến tranh lẫn hòa bình đã xây chắc nên trải nghiệm cho tâm hồn của ông vốn đang chất chứa rất nhiều tri thức tinh hoa mà ông đã học hỏi được khi còn trẻ. Sở dĩ tác phẩm của ông được công chúng đón nhận cũng vì phong cách hành văn, đó là những câu chuyện rất bình dân, ngôn từ và cách tạo nên một cốt truyện trong mỗi tập tiểu thuyết cũng đi lên từ những sự giản dị, bình thản của cuộc đời. Một nhà văn sở hữu phong cách viết truyện tự sự hiện đại cùng một lối viết đơn giản, mang đậm góc nhìn đời thường của quần chúng khiến cho những tác phẩm của ông trở nên mộc mạc, không hào nhoáng nhưng sức lan tỏa thì vô cùng mạnh mẽ. Hơn nữa, các nhân vật trong câu chuyện của Moravia ngập tràn những cá tính đa dạng và đặc biệt là truyện ngắn, nơi mỗi nhân vật là một sắc màu riêng biệt. Một điều được ông áp dụng cùng thành công sau một quá trình dài tiếp xúc triết học, tâm lý học và nghiên cứu về tính dục của bác sĩ S. Freud.

Racconti Romani (1954) là một ví dụ, cuốn sách là một tuyển tập truyện ngắn kể về cuộc sống của những con người thành Rome. Nhưng không phải là một thủ đô Rome uy nghi ngàn năm tuổi, những con người say mê nghệ thuật điên cuồng hay là một đô thị ăn chơi bật nhất Âu châu. Racconti Romani là những mẩu chuyện về những cá nhân nhỏ bé, những cuộc đời bình dị như từng ngọn nến đang tự le lói cháy bập bùng trong màn đêm cùng với hàng trăm ngàn ngọn nến khác, những thân phận bé nhỏ, thô ráp cảm xúc nhưng tấm lòng chân chất, mọi mảnh đời từ những khu phố tồi tàn đến Rome để hi vọng tìm kiếm một chút ánh sáng của sự đổi mới, đó là những câu chuyện mà nhà văn Moravia đem đến cho chúng ta, một góc nhìn của người Ý, của người Roman thời hậu chiến.

Lia Thia

Nhận xét