IT'S COMING TO ROME

Alberto Moravia, Umberto Eco, Italo Calvino, Mario Puzo hoặc Rafael Sabatini, chúng ta thấy điều gì giống nhau giữa những nhà văn đại tài này?. Đều là người Ý. Đều là những người không may mắn khi giải Nobel văn học đã bỏ rơi những tài năng thi phú. Ý đại lợi, đặc biệt là Roma, là cái nôi sớm nhất của nền văn minh nhân loại và ngôn ngữ Latin là ngôn ngữ đã định hình nên sự phong phú cho ngôn ngữ của những dân tộc Âu châu sống tại ven vùng Địa Trung Hải đầy nắng gió và những tư tưởng phóng khoáng. Có một câu nói vô cùng nổi tiếng: "Mọi ngả đường đều dẫn đến thành Rome", phải rồi, Rome là nhà, là cái nôi văn minh và là cái nôi cho sự phát triển của Âu châu. 


Ấy vậy mà từ khi đế chế La Mã thành hình tiếp nối người anh em đang mất dần máu mủ Hi Lạp, đã hình thành nên một trung tâm văn minh của toàn cõi Âu châu. Khi những gã nghệ sĩ thành Firenze thời hậu Trung cổ bắt đầu lên tiếng cho một thời đại Phục Hưng rồi Khai sáng lại văn minh châu Âu với bộ tứ siêu đẳng "da Vinci - Michelangelo - Donatello - Rafaello" trứ danh thiên hạ. Đến thời điểm từ những tháng ngày đầu tiên của Cách mạng công nghiệp lần một đến tận năm 2021, bầu trời văn học nước Ý đã thắp đầy biết bao nhiêu vì tinh tú, từ những con người bước ra trong triết học Umberto Eco đến những nhà thơ đại tài Salvatore Quasimodo, Luigi Pirandello và những nhà văn đại tài Italo Calvino, Alberto Moravia. Thậm chí những người mang dòng máu Italiano, những Oriundi khắp nơi trên thế giới cũng đông lúc nhúc Mario Puzo, Guillaume Musso, David Baldacci. Nhưng khi đem tiềm lực của người Ý ra đấu trường văn học quốc tế như giải Nobel văn chương thì quả nhiên sự ảnh hưởng của người Ý lại không còn mạnh mẽ như những gì mà tiền nhân từ thời thượng cổ và Phục hưng đã làm. Không phải vì chất lượng và nội hàm của người Ý đã suy giảm, nhưng dường như khung trời văn chương của riêng họ xây dựng lại không đồng diệu với nhũng tìm kiếm của Viện Hàn lâm Thụy Điển. Khá đáng tiếc.

Chúng ta chỉ có vỏn vẹn sáu nhà văn, nhà thơ người Ý được trao tặng giải thưởng Nobel văn học ( Elias Canetti có thể là một người Ý thứ bảy, nhưng ông là người sinh ra tại Bulgaria, học và hành văn trong môi trường văn học anh và Đức nên chúng ta không tính đến ông). Và đặc biệt hơn, trong sáu người Ý tài ba ấy có đến hơn một nữa số người là những nhà thơ (hoặc có vẻ vừa là nhà thơ, nhà văn nhưng lại nổi tiếng nhờ những bài thơ đẹp mỹ miều) và có một gã người Ý có xuất phát vô cùng đặc biệt nhưng lại bất ngờ được nhận Nobel văn học. Cho nên, trong bài viết hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu sáu nhà văn Ý đã từng đoạt giải thưởng quốc tế văn học của Nobel nha. 

Giosuè Carducci (1906)

Giosuè Carducci

Là người Ý đầu tiên nhận giải và cũng vinh dự là một trong những người đầu tiên nhận Nobel văn học khi giải thưởng này đã khai sinh được năm năm trước. Về bản thân nhà văn, ông được nhận xét là "không chỉ riêng cho sự học hỏi và nghiên cứu lĩnh vực phê bình văn học sâu rộng của ông, mà trên hết còn là sự tôn vinh năng lượng sáng tạo, sự mới mẻ trong phong cách và chất liệu trữ tình đặc trưng cho những áng thơ bất hủ của ông".

Đúng với những gì mà Viện Hàn lâm đã nhận xét, Carducci được biết đến là nhà ngôn ngữ học và nhà phê bình văn học xuất sắc và có tiếng tăm nhất trong thời đại của mình. Lĩnh vực văn học chủ yếu của ông là thơ, và ông cũng có nhiều bước tiến mang tính khai phá của mình. Đương thời ông là một trong những người ủng hộ một làn sóng thơ mới tại Ý để thay thế tính ủy mị, mềm mỏng quá trớn của "chủ nghĩa văn học lãng mạn cũ" đang sinh sôi mạnh mẽ tại nước Ý vốn đang trong giai đoạn thống nhất với nhau. Quốc dân Ý bấy giờ yêu chuộng những lý tưởng mang tính đoàn kết, mềm mỏng, lãng mạn. Từ khi còn đi học, ông bị cuốn hút bởi những giá trị văn minh, nghệ thuật của Hi Lạp và ước mơ ấy cũng được ông tiếp tục theo đuổi cho đến năm 1859 ông dạy tiếng Hy Lạp tại đại học Bologna. Ông cũng là người dịch khúc thứ 9 trong trường ca Illiad của Homer.

Grazia Deledda (1926)

Grazia Deledda

Một nữ thi nhân người Ý, và cũng là người phụ nữ Ý đầu tiên được nhận giải thưởng danh giá với lời nhận xét "vì những ý tưởng tràn đầy cảm hứng trong tác phẩm của cô ấy, cùng với một sự mềm mải rõ nét cuộc sống trên hòn đảo quê hương của cô ấy cùng một chiều sâu nội hàm, sự thông cảm đối với những vấn đề của con người nói chung". Hòn đảo được Viện Hàn lâm nhắc đến trong đây chính là quê hương Sardinia, một trong hai hòn đảo lớn nhất của Ý. Là một người theo chủ nghĩa hiện thực suy đồi, nhưng lời thơ của bà vô cùng mềm mại, âm điệu thơ hài hòa với từng vần được gieo vào bên trong câu thơ. Ngay cả khi bà suy giảm sức khỏe nghiêm trọngLa Casa del Poeta (1930)  Sole d'Estate (1933) vẫn luôn mang âm hưởng lạc quan, yêu đời. Bà không chỉ là một nhà thơ, bà còn sở hữu những tác phẩm tiểu thuyết vô cùng xuất sắc như Dopo il divorzio (1902)La chiesa della solitudine (1936), Reeds in the wind (1913),...

Thời điểm ấy là giai đoạn đầu tiên của Il Duce Benito Mussolini, người dân Ý còn đang trong men say khi chủ nghĩa dân tộc Ý bị đồng hóa cùng với chủ nghĩa phát xít (sau này Adolf Hitler cũng lợi dụng điều ấy để tạo ra màn mị dân gọi là sự hài hòa của chủ nghĩa Đức thuần túy và chủng tộc thượng đẳng Aryen). Khi ấy cũng là trùng lúc thời điểm nữ nhà thơ Deledda vừa nhận được Nobel văn học, Benito đã gửi cho bà một bức thư bày tỏ sự ngưỡng mộ với một con người vừa đại diện cho một quốc gia và dành lấy vinh quang. Kể từ đó, có rất nhiều nhà báo khắp nơi ở Ý đặc biệt là Rome đến thăm bà cho những bài phỏng vấn, nhưng cũng chính vì sự chú ý ấy khiến bà đâm ra chán ghét những hào quang phù phiếm. Bà mất vì căn bệnh ung thư vú ở tuổi 64 tại Rome, cuốn tiểu thuyết La chiesa della solitudine (1936) là cuốn tiểu thuyết cuối cùng do chính tay bà viết. Sau này người ta đã phát hiện thêm một cuốn tiểu thuyết Cosima và đã cho xuất bản di cảo vào năm 1937.

Luigi Pirandello (1934)

Luigi Pirandello

Một tài năng văn học và kịch sân khấu, một thần đồng từ rất sớm. Luigi đã bắt đầu viết thơ và viết kịch ngay từ khi còn rất nhỏ. Năm 22 tuổi, ông đã xuất bản tập thơ đầu tiên Mai Giocondo (1889) của mình. Năm 1898, ông bắt đầu viết kịch rồi cũng tự tay mình thành lập nên một đoàn kịch cho riêng mình và chỉ sau ba năm đã có ngay một vở diễn đầu tay Il dovere del medico (1902). Trong những tháng ngày sau đó, chất lượng và cả số lượng sáng tác của ông hầu như không thay đổi, luôn luôn ổn định và tâm huyết. Ông sáng tác liên tục, những cuốn tiểu thuyết, kịch sân khấu và đôi khi là tiểu luận được trứ tác liên tục mà không có thời gian nghỉ ngơi. Đỉnh cao nhất phải nói đến vở diễn Sei personaggi in cerca d'autore (1921), vở diễn là đỉnh cao của chủ nghĩa duy thực, đi sâu vào tâm lý và tâm trí của con người và nó chính là một động lực cho sự phát triển mới của nghệ thuật sân khấu hiện đại. 

Năm 1924, ông gia nhập đảng phát xít và được Benito Mussolini giúp thành lập nên và trở thành giám đốc Nhà hát nghệ thuật Quốc gia Ý nhưng năm 1928 thì đóng cửa. Năm 1934, ông nhận được Nobel văn học với lời bình "cho sự hồi sinh táo bạo và tài tình của nghệ thuật kịch tính và phong cảnh"

Salvatore Quasimodo (1959)

Salvatore Quasidomo

Một nghệ sĩ văn chương nữa thành công trên phương diện những bài thơ, cả cuộc đời văn nghiệp của Salvatore là những bài thơ và lời nhận xét "đối với thơ trữ tình của ông, với ngọn lửa cổ điển thể hiện kinh nghiệm bi thảm của cuộc sống trong thời đại của chúng ta" đã gói gọn lại hết những tinh túy của nghệ thuật thể hiện ý tứ thơ ca trong những tác phẩm của ông. Ông là một nhà thơ rất biết cách thích ứng với xu thế nghệ thuật của thời đại, phản ảnh ở việc những sự thay đổi cả chất thơ, kỹ thuật viết và cả biểu tượng được nhắc đến trong xuyên suốt thời kỳ biến động của xã hội Âu châu. Từ những năm chập chững hành văn ông theo chủ nghĩa hiện thực vốn là một xu hướng thịnh hành những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Bước vào giai đoạn tiền Thế chiến hai, những "năm sóng gió" của thế giới, 1930 Salvatore theo trường phái Hermetic và hướng về những đề tài xã hội khi thế chiến nổ ra. Sau chiến tranh, ông đã phát triển một ý tưởng thơ mới liên quan nhiều đến con người và hoạt động của con người mà nổi bật là tập thơ La terra impareggiabile (1958).

Eugenio Montale (1975)

Eugenio Montale

Eugenio Montale, người được xem là truyền nhân xứng đáng và xuất sắc nhất của Giacomo Leopardi trong những áng thơ trữ tình. Từ nhỏ tuy không có cơ hội đi học nhưng bù lại những tri thức từ những cuốn sách văn học, triết học được ông tiếp thu ở nhà như một hình thức tự học đã trực tiếp tạo nên nội hàm văn học cho ông. Ngay từ khi xuất bản tác phẩm Ossi di seppia (1925) đã gây được tiếng vang bởi giọng thơ tạo nên sự khác biệt và cách tân. Cũng giống như bao con người đã bước ra từ chiến tranh đau thương, ông có nhiều bài thơ mang cá tính phản chiến và tinh thần chống chủ nghĩa phát xít thời hậu chiến. Năm 1967, ông được bầu là thượng nghị sĩ xuất đời của Ý quốc. Lời thơ của ông là những thanh sắc của tiếng Ý bình dân, sự tìm tòi ngôn ngữ nguyên thủy và tư duy của nhà phê bình văn học, năm 1975 ông vinh dự được trao giả Nobel văn học với lời nhận xét "bởi thơ đặc biệt của ông, với sự nhạy cảm nghệ thuật tuyệt vời, đã diễn giải các giá trị con người dưới dấu hiệu của một cái nhìn về cuộc sống không ảo tưởng"

Dario Fo (1997)

Dario Fo

Một người Ý, nhưng là một gã nghệ sĩ đặc biệt, không cùng sự đồng diệu với giới văn sĩ và thi nhân. Dario Fo chắc chắn vẫn là một nghệ sĩ đáng trân trọng với những đóng góp cho nền nghệ thuật Ý quốc nhưng khác với những người đồng nghiệp vốn tôn sùng đền thờ là cây viết cùng những trang giấy chứa đầy tinh hoa của họ. Ngôi đền của Dario Fo là sân khấu, và số mệnh cũng như sự nghiệp nghệ thuật của ông luôn gắn liền với sân khấu. Ông là soạn giả các vở kịch, nhạc sĩ, họa sĩ và cũng là một diễn viên sân khấu. Bởi vậy tại sao ngay từ đầu Lia Thia đã nói có một người Ý đặc biệt, phải rồi gã đặc biệt ấy chính là Dario Fo. Dario có một cuộc sống khá phong phú, mặc dù vẫn liên quan đến viết nhưng ông là một biên kịch và là một người tạo sáng tạo nên những kịch bản cho sân khấu. Và để số lượng kịch, phim mà ông đã tham gia thì phải nói một từ "khổng lồ" trong suốt cuộc đời nghệ sĩ của mình ông đã tham gia rất nhiều phim và kịch, và hầu như ông không nghỉ ngơi khi số lượng tác phẩm được ông viết ra mắt vô cùng đều đặn. Ông bắt đầu công việc soạn từ năm 1954, và đã cần mẫn cho tới khi mình qua đời và kịch bản phim La fantastica storia di Marc Chagall (2016) là kịch bản cuối cùng được ra lò trước ngày ông mất cùng năm ấy. 

Năm 1997, ông được nhận Nobel văn học với lời bình "người ví von những kẻ giống như đám hề thời Trung Cổ qua việc phê phán bao quyền và đề cao phẩm giá của những con người bị áp bức". Khoảng khắc ông nhận lấy giải thưởng danh giá này cũng là lúc mà làn sóng phản đối Viện Hàn lâm Thụy Điển nổ ra dữ dội. Người nói rằng Viện Hàn lâm đang diễn trò hề trước mặt biết bao nhiêu khán giả và làm xấu mặt đi danh dự của những văn sĩ chân chính, những người ngày đêm cực khổ để cống hiến và sống cuộc đời của mình với thân phận là nhà văn và Viện Hàn lâm lại trao giải cho một nhà biên kịch, chỉ thua cái tát ở độ đau mà thôi. Những người theo dõi cho rằng tài năng của Dario Fo nên được nhìn nhận đúng với lĩnh vực mà ông đang hoạt động, giải thưởng phim và kịch là những hạng mục dành cho ông còn hạng mục văn học phải luôn dành cho văn nhân. 

Mà nói đến Nobel thì chúng ta không còn gì để mà nói nữa, "giải thưởng tình thương", "giải văn học nhưng không trao cho văn nhân", "cuộc chơi chính trị", "lộ thông tin", ôi giàn ơi một đống thị phi từ ngày thành lập đến nay nên chúng ta có vẻ như cảm thấy nó đã quá quen thuộc.

Lia Thia

Nhận xét