Nobel prize là một giải thưởng được lập ra bởi nhà hóa học thiên tài Alfred Nobel sau khi ông mất nhằm trao cho những cá nhân kiệt xuất có đóng góp tích cực vào sự phát triển của con người. Tính đến nay đã có tất cả năm hạng mục trao giải gồm: Hòa bình, Vật lý, Hóa học, Văn học và Y sinh học trong đó Nobel Văn học là một hạng mục nhỏ nữa nhằm để vinh danh những các nhân có một cuộc đời văn nghiệp hoành tráng và có đóng góp tích cực cho nền văn chương thế giới.
Từ năm 1901 khi Sully Prudhomme là người đầu tiên được xướng tên cho giải thưởng cao quý này, đến tận bây giờ cộng đồng học thuật đã chứng kiến 117 tài năng được vinh danh. Trong số đó như Lia Thia và chúng ta không cần phải bàn cãi, nhóm tác giả có ấn phẩm tiếng Anh và tiếng Pháp, Đức chiếm phần lớn mà mình phải nể nhất là sự đóng góp cho nhóm nhà văn nói tiếng Đức bởi cộng đồng nói tiếng Pháp và Anh không chỉ gói gọn trong hai quốc gia ấy mà còn là một ngôn ngữ vô cùng phổ biến nên sự đóng góp của nhà văn từ Ba Lan, Áo, Đức thật sự là đáng nể. Nhưng đó không phải là câu chuyện chính mà chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng trong ngày hôm nay. Hôm nay, Lia Thia mình muốn giới thiệu cho quý bạn về những sự xuất hiện của các tác giả đoạt giải Nobel đến từ châu Á.

Thiệt sự đây là một chủ đề khá đặc biệt bởi tuy số lượng tác giả gốc Á châu không quá nhiều nhưng tất cả bọn họ dường như đã khẳng định tên tuổi của mình trên toàn thế giới, đặc biệt nhiều người còn đã trở thành một trong những tấm gương cho nghệ thuật thuần khiết và tự do nhân loại. Nghe vĩ đại quá phải không? Không! Sứ mạng của một nhà văn là như thế, bởi không chỉ viết vẽ nên những đường nét văn chương hào hoa là xong, bởi nhiêu đó là chưa thể đủ được. Mỗi nhà văn phải còn là những người gìn giữ những giá trị đích thực không chỉ của văn học mà còn là giá trị thuần khiết về đạo đức, sự tự do và hướng thiện.
Và một điều khó hiểu rằng số lượng người Á châu được vinh danh lại khá ít mặc dù cùng với châu Âu thì châu Á cũng là một cái nôi lâu đời của văn học và số lượng các nhà văn châu Á phải nói cũng đông không xuể không kém cạnh gì với châu Âu và Nam Mỹ, nổi tiếng nhất có lẽ là trường hợp của nhà văn Nhật Haruki Murakami hoặc Higashino Keigo. Cho nên trong bài viết hôm nay chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu xem những tác giả nổi tiếng người châu Á đã đoạt giải Nobel văn học là ai nhé. Thực ra có đến tám vị, một con số khá ít, chứ cỡ hai chục thì mình đắp chăn đi ngủ lâu lắm rồi. Thông cảm ikkk, tìm tư liệu viết nó cũng lắm chông gai mà (T.T).
Rabindranath Tagore (1913)
![]() |
| Rabindranath Tagore |
Đại danh hào Tagore của Ấn Độ thì có lẽ chúng ta không cần phải tìm hiểu nữa rồi, ông là người vĩ đại của những người vĩ đại và cũng là người châu Á đầu tiên đoạt giải Nobel văn học từ rất sớm. Trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XX thì văn học là vùng đất xoay quanh các hào quang Tây Âu, chỉ có duy nhất lão già người Ấn có thể chen chân vào những vì tinh tú trên. Ở Việt Nam, số lượng tác phẩm của ông không phải bàn cãi, đồ sộ và tạo nên tầm ảnh hưởng rất lớn đến công chúng Việt Nam. Không chỉ là những tác phẩm bằng tiếng Bengail, ông còn có những tác phẩm sáng tác bằng tiếng Anh và người Á châu coi ông là một cầu nối của văn hóa Á-Âu từ những năm đầu của thế kỷ XX.
Viện Hàn lâm Thụy Điển đã trao giải thưởng cho ông cùng một lời nhận xét đầy trang trọng: “Những câu thơ sâu sắc, tinh tế, mới mẻ cùng ý tứ vô cùng đẹp. Bằng một tài năng kiệt xuất, ông luôn trình diễn những tâm tưởng của thơ bằng ngôn ngữ Anh quốc, một phần của nền văn học Tây phương"
Yasunari Kawabata (1968)
![]() |
| Yasunari Kawataba |
Tác giả của Ngàn cánh hạt và Xứ tuyết là người Nhật đầu tiên được nhận giải Nobel văn học, gã nghệ sĩ lạc đường giữa nghệ thuật và hai cuộc thế chiến ác liệt. Người giữ gìn những tinh túy và tư tưởng văn chương lãng mạn thuần khiết của con người Phù Tang. “Khả năng tường thuật bậc thầy cùng với khả năng thấu cảm tuyệt vời thể hiện được bản chất của tâm hồn người Nhật Bản” là những lời nhận xét dành cho ông, không sai đi một câu chữ nào.
Có thể nói rằng những tác phẩm của Kawabata không hề có tác phẩm nào xuất sắc hơn tác phẩm nào, bởi tất cả đều là những chân giá trị chuẩn mực, mang nội hàm văn chương ngang nhau và là định nghĩa cho những tác phẩm của chủ nghĩa lãng mạn với câu từ mềm mại, nhẹ nhàng.
Kenzaburō Ōe (1994)
![]() |
| Kenzaburō Ōe |
Một người Nhật Bản tiếp theo được vinh dự được xướng tên trên bục danh dự của Nobel văn học. Khác với người đầu tiên là Kawabata, Ōe không chỉ đơn giản là một nhà văn và soạn giả mà còn là một người hoạt động hòa bình tích cực, đáng tôn trọng tại Nhật. Hầu như cả cuộc đời văn nghiệp của ông luôn có xen kẽ những dấu mốc và tranh cãi không đáng có trên con đường hoạt động vì hòa bình tại Nhật Bản.
Năm 1959 và 1960, ông có mặt trong cuộc biểu tình Anpo chống Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật. Năm 1961, ông và tòa soạn nơi công tác gặp biến cố bởi sự đe dọa từ những người cực hữu, nguyên nhân cũng do tiểu thuyết Cái chết của một thanh niên chính trị của Ōe mà ra, và sớm sau đó thì ông bị những người phái cực hữu cho ăn đòn khi đang phát biểu tại đại học Tokyo. Năm 94 là năm đại thành công với Ōe khi ông vừa được nhận Nobel văn học và Huân chương văn hóa Nhật được trao bởi Nhật hoàng nhưng ông từ chối nhận cái sau. Bởi đơn giản tuổi thơ ông được sống và may mắn được nhồi sọ bởi tư tưởng ngu trung với đức vua, nên ông không muốn nhận giải thưởng vốn thuộc về hoàng gia Nhật. Đó chỉ là một chút những rắc rối mà ông mắc phải trong suốt sự nghiệp văn chương của mình, còn nữa nhưng kể thì không bao giờ hết.
Trở lại với giải thưởng Nobel, ông được cho rằng là “người với sức mạnh thơ mộng tạo ra một thế giới tưởng tượng, nơi cuộc sống và thần thoại cô đọng lại để tạo thành một bức tranh đáng kinh ngạc về tình trạng khó khăn của con người ngày nay”
Cao Hành Kiện (2000)
![]() |
| Cao Hành Kiện |
Sự xuất hiện của Cao Hành Kiện người Trung Hoa như là một minh chứng phá vỡ thế đối đầu văn chương giữa người Ấn và người Nhật và sau cùng là khẳng định cho độc giả đừng bao giờ quên đi sự có mặt của tinh hoa Trung Hoa tại Á châu. Mặc dù nhận lấy giải thưởng cao quý này dưới tư cách công dân Pháp nhưng vai trò và đóng góp cho sự nghiệp kịch sân khấu và văn học luôn trọn vẹn với dòng máu Trung Hoa trong con người mình. Những sáng tác của ông được đánh giá “cho một loạt các giá trị phổ quát, những hiểu biết sâu sắc và sự khéo léo về ngôn ngữ, đã mở ra những con đường mới cho tiểu thuyết và phim kịch nghệ Trung Hoa”.
Một chút về nghiệp cầm viết của Cao Hành Kiện, ông là một nghệ sĩ văn học được nuôi dưỡng trong cái nôi của tri thức Tây phương đặc biệt là Pháp cho nên tác phẩm và bản chất con người ông luôn thấm nhuần những lý tưởng dân chủ về tự do, con người và nghệ thuật. Cho nên những phẩm chất ấy cũng là cái gai trong chính quyền Cộng sản Trung Quốc bởi ông từng tham gia đòi quyền lợi sáng tác văn nghệ trong sạch, tự do và đích thực. Hơn nữa sau khi đến Pháp, ông cũng tham sáng tác cho bộ phim truyền hình chính trị Những kẻ đào tẩu nói về cuộc biểu tình Thiên An Môn nên cũng vì thế tên tuổi của ông tại Trung mất hết. Sau cùng năm 1988 ông sang Pháp rồi ít lâu sau đó nhập tịch và sinh sống, làm việc như một công dân Pháp.
Sir Vidiadhar Surajprasad Naipaul (2001)
![]() |
| V.S. Naipaul |
Một lần nữa, thêm một cái tên có gốc Ấn đã được xướng tên để cân bằng danh hiệu so với đối thủ Nhật Bản. Sir V.S Naipaul thực ra là người sinh ở Tinidad & Tobago và dành cả cuộc đời văn nhân của mình cho nước Anh. Nhưng xét theo nguồn gốc ông vẫn mang gốc gác của người Ấn và ông là một trong những người Ấn được nữ hoàng Anh phong tước hiệu hiệp sĩ vì những đóng góp của mình cho lĩnh vực văn chương nghệ thuật.
Viện Hàn lâm Thụy Điển đã trao tặng giải thưởng cho ông với dòng nhận xét danh dự “vì đã thống nhất tường thuật sâu sắc và xem xét kỹ lưỡng trong các tác phẩm buộc chúng ta phải nhìn thấy sự hiện diện của lịch sử bị đàn áp”.
Mạc Ngôn (2012)
![]() |
| Mạc Ngôn |
Sự trở lại của một cá nhân Trung Hoa lần này không còn là chủ để tranh cãi của người Trung Hoa như trường hợp Cao Hành Kiện nữa. Năm 2012 quả là một năm rất xứng đáng của nhà văn người Sơn Đông sau quá nhiều năm tạo nên sự tranh đua bất tận trong hội mọt sách liệu các nhà văn đương thời của thập niên đầu thế kỷ XXI là Cao Hành Kiện, Mạc Ngôn và Haruki Murakami ai xuất sắc hơn. Về các tác phẩm của Mạc Ngôn thì chúng ta khỏi cần phải bàn cãi, nó mang đầy đủ cái nét thanh tao và hồn cốt của xứ Trung Hoa đại lục, ông được nhận xét là “người với chủ nghĩa hiện thực ảo giác kết hợp các câu chuyện dân gian, lịch sử và đương đại”. Tuy gây ra tranh cãi rất nhiều trong cộng đồng học thuật liệu rằng Mạc Ngôn có xứng đáng nhận giải hay không vì ngoài ông ra còn những đối thủ vô cùng đáng gờm khác, nhưng xét cho cùng thì giải Nobel văn học tuy là một giải thưởng mang hơi hướm học thuật rất cao nhưng cũng không thể tránh hết những mục đích gây tranh cãi, và nếu xét đến một cách rộng lượng hơn thì cả Trung Hoa đại lục thì Mạc Ngôn là một bộ mặt của Trung Hoa cho nên việc nếu ông chỉ nhận giải đại diện cho văn chương Hoa ngữ thì vẫn vô cùng xứng đáng.
Kazuo Ishiguro (2017)
![]() |
| Kazuo Ishiguro |
Là một người châu Á gần nhất đoạt giải Nobel, và cũng là một cái tên không mấy xa lạ khi nói đến cộng đồng độc giả ở châu Á và toàn thế giới. Nhà văn Kazuo tuy không có một số lượng tác phẩm đồ sộ nhưng mỗi ấn phẩm của ông đều là những cơn sốt tại ngay các quốc gia ấy. Văn phong lẫn nội hàm văn học của ông thì vô cùng đa dạng, những ấn phẩm mang phong cách Nhật Bản cũng có, tiểu thuyết viễn tưởng hoặc lịch sử cũng có, ông là một con tắc kè hoa trong văn học khá thành công ở nhiều lĩnh vực. Hai cuốn tiểu thuyết The buried Giant (2015) và Klara and the Sun (2021) thì vẫn tiếp tục gây sốt cho cộng đồng mọt sách đến tận bây giờ. “Người mà trong những cuốn tiểu thuyết có sức mạnh cảm xúc lớn, đã khám phá ra vực thẳm bên dưới cảm giác kết nối ảo tưởng của chúng ta với thế giới” là những lời nhận xét về ông cũng chẳng sai một chút nào khi ông là một bậc thầy trong việc tạo ra một thế giới rộn mở đủ sức đem độc giả của mình đến với mọi trải nghiệm xúc cảm từ nhẹ nhàng nhất đến mãnh liệt nhất.
Lia Thia







Nhận xét
Đăng nhận xét