MILAN KUNDERA: MỘT CON NGƯỜI, HAI BẢN THỂ CỦA HAI BỜ ĐÔNG TÂY ÂU CHÂU

Nhắc đến Cộng hòa Czechia, Séc hay Tiệp Khắc. Chúng ta sẽ nghĩ gì đến đất nước Trung Âu nhỏ bé là quốc gia đệm của Đông Tây châu Âu này đây? Những người am hiểu, đam mê sử học nói rằng đây từng là một quốc gia Cộng sản, theo Xã hội chủ nghĩa. Những tay chuyên dạy mấy môn Mác- Lê … chả biết mẹ gì cả. Các khán giả của điện ảnh nói rằng Karlovy Vary là kinh đô điện ảnh Âu châu. Còn đối với mình, một người yêu mến văn học. Czechia có Milan Kundera, một con người với hai bản thể riêng biệt, hai cá tính văn học trái ngược nhau khi ở Đông Âu và Tây Âu.

Milan Kundera (1929), sinh ra tại Brno, Tiệp Khắc và hiện đã nhập tịch Pháp vào năm 1981 vì ông đã bị tước quyền công dân từ năm 1979 do những lùm xùm chính trị vào thời điểm đó. Nếu không nói đến quốc tịch hiện tại mà chỉ xét về nguồn gốc của mình, Milan được coi là một trong những con người nổi bật của nước cộng hòa Czech và Tiệp Khắc khi trước. Đáng tiếc là cuộc đời của ông luôn là những tháng ngày sôi sục vì những tháng ngày chính trị, các cáo buộc gây tranh cãi và lần lưu vong khỏi quê nhà mãi mãi.


Sinh ra trong một gia đình có cha mẹ là những nghệ sĩ piano tài năng, anh họ của ông cũng là một nhà văn, dịch giả có tiếng, Ludvík Kundera. Cho nên từ khi nhỏ ông đã có ít nhiều sự nhạy cảm khi tiếp xúc với nghệ thuật, Ông lớn lên và trải qua thời thanh niên của mình với bầu không khí nghệ thuật tràn ngập trong lồng ngực, Milan từng học khoa Nghệ thuật của đại học Charles ở Praha và khoa Điện ảnh của Học viện nghệ thuật Biểu diễn ở Praha. Praha chính là nơi đã ươm mầm nên tiềm năng cua nhà văn trẻ. Sinh ra trong thời điểm thế giới đang chao đảo bởi sự lũng đoạn kinh tế, chia rẽ chủng tộc, chính trị và cuộc đệ nhị thế chiến. Nhưng tất cả thời gian ấy trôi qua con mắt của ông chỉ như là một khoảng trời tuổi thơ bởi ông thuộc thế hệ không ý thức được sự từng tồn tại của Đệ nhất cộng hòa Tiệp Khắc trước khi chính thể bị móng vuốt của bầy sói phát xít xâu xé. Ông cũng như bao người cùng trang lứa khác bước vào độ tuổi thanh niên với lý tưởng của chủ nghĩa Cộng sản, một phong trào chủ nghĩa cực tả thịnh hành ở châu Âu. Ông gia nhập đảng Cộng sản Tiệp Khắc năm 1948 nhưng cũng sớm gặp chuyện.

Năm 1950, Milan Kundera và nhà văn Jan Trefulka bị khai trừ khỏi đảng vì các hoạt động chống lại đảng, về sau, ông dùng chính sự kiện này để trừu tượng hóa nó vào tác phẩm Žert (1967) của mình. Ông lại được tiếp tục gia nhập đảng vào năm 1956 và lại bị khai trừ khỏi đảng một lần nữa vào năm 1970. Sự vụ kỳ này cũng là do ông đã cùng Pavel Kohout, một nhà văn theo lý tưởng của chủ nghĩa Cộng sản cải cách, cùng chung mục đích với ông. Cả hai đã tham gia phong trào Mùa xuân Praha, một phong trào chính trị của cả nước đòi hỏi tự do hóa chính trị cũng như thay đổi nền kinh tế, dân chủ. Kết cục sau đó thì Liên Xô đã đưa quân đội của mình tiến vào Tiệp để dẹp loạn đi mầm mống ngày càng lan rộng của phong trào. Tham gia thất bại một phong trào cải cách nhưng Milan Kundera vẫn cố chấp với ý niệm rằng “chủ nghĩa Cộng sản tại Tiệp có thể biến đổi theo một hướng tích cực hơn, cải cách hơn”, ông vẫn tiếp tục con đường của một nhà hoạt động dân chủ thông qua những cuộc tranh cãi kịch liệt với nhà văn Václav Havel về con đường cách mạng của mình nhưng bất thành, vì đơn giản để thay đổi một tư tưởng chính trị đã ăn rất sâu vào một xã hội đầy sức ép thì điều ấy là vô ích. Năm 1975, ông từ bỏ giấc mơ cải lương của mình để đến Pháp dạy tại đại học Rennes. Khá may mắn cho Milan Kundera, năm 1979 ông vinh dự được Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc tước luôn quốc tịch và sớm nhập tịch Pháp quốc vào năm 1981.

Ở Pháp, cuộc sống chính trị của ông không còn sôi nổi như hồi ở Tiệp Khắc nữa, trái lại ông có một sự nghiệp cầm viết thành công và để lại nhiều di sản trong đó có nhiểu tiểu thuyết và tiểu luận phi hư cấu nổi tiếng. Khi còn ở Czech, Milan đa số dùng tiếng quê hương mình để trình bày mọi ấn phẩm dưới dạng tiếng Czech, từ khi đến Pháp ông mới tích cực dùng tiếng Pháp trong các tác phẩm của mình như một nguyên bản chính xác nhất cho các bản dịch ngoại ngữ. Với tiếng Czech quê hương, ngòi bút của ông trở nên mềm mại và nhẹ nhàng với câu từ dễ gần, nhiều cảm xúc. Với tiếng Pháp, ông khó tính và cẩn thận như một nhạc sĩ đang dò xét từng nốt nhạc trên bản thảo của mình. Tính cho đến hiện tại, ông đã có hơn 24 tác phẩm lớn nhỏ, trải đều từ thơ, tiểu luận và tiểu thuyết văn học. Điều đáng tiếc nhất trong cuộc đời của Milan Kundera có lẽ là giải Nobel văn học chưa một lần được xướng tên ông. Một sự bỏ lỡ vô cùng đáng tiếc.


Ở Milan Kundera, tuy là một người nhưng ông có hai bản thể riêng biệt với nhau đại diện cho hai giai đoạn ông sống tại Đông Âu và Tây Âu. Ở Đông Âu là một hình ảnh nhà hoạt động chủ nghĩa xã hội cấp tiến với nhiều ước mơ, hoài bão. Còn Milan ở Tây Âu, ông là một Kundera thành công trên diễn đàn văn học và phi hư cấu, là một gương mặt đáng nể đối với những nghệ sĩ trẻ và có một cuộc đời trầm lặng hơn. Khi ở Czech, các tác phẩm hư cấu của ông và cả tiểu luận của ông là những ấn phẩm ca ngợi con người Czech kiên cường và lên án chủ nghĩa toàn trị tại Tiệp Khắc. Ông khai thác các khía cạnh hài hước và bi kịch mà chủ nghĩa toàn trị đã đem lại dưới một góc nhìn trừu tượng. Ở thời gian này, chủ đề mà ông nhắm đến thường có nhiều hơi hướm liên quan đến chính trị, lưu vong và cuộc sống vượt biên. Tuy nhiên, ông cũng nhanh chóng phủ nhận đi việc đưa chính trị và lịch sử vào trong tác phẩm của mình và khẳng định tiểu thuyết của mình không mang tính chính trị bằng câu nói: “Tiểu thuyết gia không phải là người hầu cho những sử gia”. Nhưng cho dù có phủ nhận hay không thì chúng ta phải công nhận những tác phẩm của ông ngày ở Tiệp luôn mang nhiều hơi hướm của một nhà tư tưởng chính trị, Radikalizmus a expozic (1969) hay Směšné lásky (1969), Žert (1967) là ba trong số nhiều ví dụ rõ ràng về các tác phẩm chính trị thời ở Czech của ông.

Nesnesitelná lehkost bytí (1984) hay còn được biết với cái tên Đời nhẹ khôn kham một tiểu thuyết đã bày tỏ hết nổi lòng của một người mang trong mình cảm thức lưu vong. Một tác phẩm với tựa đề vô cùng nhẹ nhàng, nhưng sự suy ngẫm lại khiến cho người đọc cảm thấy nặng nề về ý nghĩa cuộc đời, sự trống rỗng và phù du của trần thế, khiến cho tâm hồn ta nặng trĩu. Đó có vẻ như được xem là tác phẩm cuối cùng của ông nhằm rũ bỏ hoàn toàn quá khứ “tin yêu chính trị” một cách không có lối ra để xây dựng lại hình ảnh của một Milan Kundera mới. Ở Pháp, ngòi bút của ông có nhiều bước tiến phát triển rõ rệt và những tư duy văn học ấy cũng phát triển theo những phong trào dân chủ đang nảy nở khắp Âu châu. Ông là một trong những nhà văn đi tiên phong trong phong cách khai thác khía cạnh tình dục, mối liên kết giới tính và phá thai khi mà phong trào đòi quyền lợi cho phái nữ đang trở nên phổ biến. Bằng phong cách miêu tả nội tâm nhân vật vốn là một điểm mạnh của chính bản thân mình, ông đã khiến cho nhiều tác phẩm tiểu thuyết của mình sau này trở nên phổ biến toàn thế giới. Tại Pháp, những nghĩ suy chính trị ở quê nhà đã bị thay thế hoàn toàn bởi phong cách tìm hiểu và trở về với công việc khai thác tâm lý, tình cảm trần tục của con người.

Một điều thú vị kà các tác phẩm của Milan Kundera thường kể bằng ngôi thứ nhất và ít khi tập trung vô miêu tả đặc thù chi tiết từng nhân vật hoặc khung cảnh của cốt truyện. Ông rất thích sử dụng từ ngữ định hình cá tính của nhân vật thay vì vẻ ngoài, xuất thân cụ thể của họ, thậm chí ông bắt đầu nhân vật chính của mình mà chỉ tập trung vào nhân vật ở hiện tại và quá khứ của nhân vật không hề xuất hiện xuyên suốt tác phẩm. Hơn nữa, một tác phẩm của ông có rất nhiều nhân vật chính, và ngay cả trong tác phẩm ông đôi lúc cũng có thể dễ dàng khép lại một nhân vật chính và tiếp tục với nhân vật khác. Tuy ông có sự hiểu biết rất sâu sắc về tâm lý, hành động của con người nhưng cũng giống như những suy nghĩ chính trị, ông chưa bao giờ thừa nhận những yếu tố tâm lý là gia vị chính trong các tác phẩm của mình. Có thể nói rằng, Milan Kundera là một nhà văn thầm kín, ngại ngùng và rất bí ẩn, nhất là khi nói đến phong cách hành văn của ông. Ông không khẳng định yếu tố chính trị trong những tác phẩm “chắc chắn có yêu tố chính trị” của mình. Những tác phẩm như Đời nhẹ khôn kham hay Nesmrtelnost (1990) hơi hướm triết học, ông không thừa nhận hoàn toàn sự có mặt của triết học và cả những ấn phẩm mang đậm dấu ấn của tâm lý như La fête de l'insignifiance (2014), không có gì ngoài bị khép kín và việc thừa nhận yếu tố tâm lý, tình cảm phàm trần là chủ đề chính cho câu chuyện.


Sau khi đặt chân lên Pháp quốc, cuộc đời của ông khép kín chứ không còn sôi nổi như thời còn trẻ ở Tiệp Khắc. Việc chứng kiến sự thất bại của Mùa xuân Praha, việc Liên Xô tiến vào quê hương năm 1968, cho đến khoảnh khắc rời khỏi Tiệp cùng vợ mình vào năm 1975. Ông chọn cuộc sống yên bình, trầm lặng. Nhưng không vì thế mà những ồn ào liên quan đến cái tên Milan Kundera có thể chấm dứt. Ngày còn ở Tiệp Khắc, ông bị tình nghi là chỉ điểm cho vụ cựu phi công Miroslav Dvořáček khi anh này đã trốn khỏi Tiệp và trở lại quê hương dưới tư cách là gián điệp cho tổ chức người Tiệp lưu vong. Bản thân Milan Kundera phủ nhận mọi thông tin buộc tội mình nhưng bên phía Cơ quan an ninh của Czech không xác nhận thông tin này là thật hay giả. Thêm nữa, vào năm 2009, ông đã ký đơn ủng hộ phóng thích đạo diễn Ba Lan Roman Polanski đang bị bắt ở Thụy Sĩ, đáng chú ý là người đàn ông Ba Lan này đã bị tố cáo đánh thuốc mê và hiếp dâm một cô bé 13 tuổi. Trong tác phẩm La fête de l'insignifiance ra lò năm 2014,  cuốn tiểu thuyết nhanh chóng bị đánh giá không tốt khi câu chuyện xoay quanh bốn người đàn ông, cuộc trò chuyện của họ xoay quanh về mối quan hệ với phụ nữ, những khó khăn riêng tư. Tuy vậy, các tờ báo như New York Times, Economist không đánh giá cao tác phẩm vì nó mang màu sắc châm biếm một cách gượng ép, một trò đùa khá hời hợt.

Nói về sự ảnh hưởng của Milan Kundera, thật khó để xác định được liệu hình ảnh của ông và vị thế hiện tại, với những tác phẩm để lại cho đời. Liệu ông có đi vào ngôi đền với tư cách là một trong những tác giả kiệt xuất của châu Âu hay không? Thật khó để khẳng định cụ thể, bởi sự ảnh hưởng văn học, cá tính văn chương và tư duy của ông hàm chứa nhiều sự phức tạp, nó là một sự đổi dời rồi lại kín đáo khiến cho người đọc chỉ biết thưởng thức tác phẩm của ông nhưng cũng sẽ mau quên ông nếu ông được đặt cạnh các cá nhân khác. Cũng phải thôi, vì trong những năm hậu chiến và thời kỳ chiến tranh lạnh, các phong trào chính trị chính là yếu tố chính đủ sức để thay đổi mục đích sống, khái niệm của sự tự do và ý tưởng cá nhân của rất rất nhiều người, và Milan Kundera cũng không ngoại lệ. Nếu nói Âu châu trong thời chiến tranh lạnh là một bàn cờ, thì Milan Kundera chính là một quân cờ thú vị. Ông xuất phát là một quân cờ chủ nghĩa xã hội tại Đông Âu, mang sự nồng nhiệt của tuổi trẻ và khao khát canh tân chủ nghĩa xã hội tại Tiệp Khắc. Khi con cờ Milan qua sông, ở bàn cờ Tây Âu, ta lại thấy được một Milan Kundera trầm lặng và kín đáo hơn, các tác phẩm không còn sự ảnh hưởng của chính trị mà đong đầy sự đón nhận nghệ thuật văn học Tây Âu. Một con người khá thú vị, đã từng đi qua hai bầu trời khác nhau của xã hội châu Âu, là dấu gạch nối điển hình cho sự thay đổi của một cá nhân khi từ Đông Âu sang Tây Âu hay ngược lại. 

Lia Thia

Nhận xét