Cả bàn, vừa ăn vừa nói xôn xao, có mỗi mình tôi là ngồi cắm cúi trong bàn,
lâu lâu nghe vài ba câu kể rồi gật gật cho có tụ. Mỗi lúc bưng món là vài thời
điểm hiếm hoi tôi chịu mở miệng tiếp chuyện với mọi người. Câu chuyện trong bữa
tiệc cũng chỉ là những vấn đề thường ngày, cơm áo, tình yêu, tiền lương rồi
tiền nhà, không có gì đặc biệt mấy. Tôi chẳng hiểu vì sao người ta thích nói và
thích ca thán cho nhau nghe nhiều đến như vậy, dẫu đã biết tỏng cuộc sống của
nhau sau mấy năm đi làm chung. Nhưng thôi cũng chẳng sao, dù gì cũng là một
người kiệm lời, cho nên tôi cũng kiệm luôn việc nề hà bằng lời nói. Cứ bình
thản lắng nghe người ta kể chuyện rồi mỉm cười góp vài câu gật gù cùng nhau,
vừa mang tiếng là biết lắng nghe mà cũng thành con người đáng tin nhờ cái mác
kín miệng. Cho đến khi món tráng miệng được bê lên thì Egisto, cái đứa “nghiêm
túc” nhất tiệm lại ùa lên bày trò. Quan trọng là cái trò mèo của nó trực tiếp
làm cho tâm hồn ăn uống của tôi bị ngắt đoạn.
-
Mọi người! Bây giờ chúng ta hãy dành một tràng vỗ tay cho phần trình
diễn tuyệt hảo đến từ nghệ sĩ dương cầm của quán chúng ta thôi nào. Quý ngài
Cristoforo de Mạnh Huỳnh.
Tiếng vỗ tay của mọi người làm tôi phải bỏ dở món bánh panettone ngon lành
còn chưa ăn được một nửa. Quỷ tha ma bắt thằng Egisto, nó lại cứ tía lia tên
mình ra với cái giọng đọc nửa Tây nửa Tàu, tôi thích cái tên Huỳnh Mạnh Trí
thay vì Cristoforo chỉ để dễ gọi khi nhập tịch. Ơn chúa, may mắn là tay biên
tập ở Cục nhập cảnh còn giữ lại cho cái họ Huỳnh chứ hắn mà đổi luôn sang
Soriano hay Santiago thì chắc tôi không để cho hắn yên. Tôi liếc mắt đến Piero
để cầu cứu vì thật ra trong giờ phút này đúng hơn tôi không nên xuất hiện, ánh
mắt của lão thì tràn đầy thấu hiểu nhưng nụ cười mỉm và cái gật đầu thì dường
như muốn thúc đẩy tôi. Bất đắc dĩ, tôi đón lấy chiếc khăn giấy chùi miệng rồi
chậm rãi bước lên sân khấu nhỏ với nỗi tiếc rẻ miếng bánh panettone còn chưa ăn
xong. Cũng còn hai tuần nữa là Giáng sinh, nên đành bấm bụng để cái bánh thơm
phức đó ra khỏi tâm trí mình mà nhẹ nhàng đi lên sân khấu.
Từ tốn ngồi xuống, tôi tháo chiếc đồng hồ bỏ vô túi áo như một thói quen.
Tới khúc này chẳng cần nói ai cũng biết, ca sĩ chính chỉ có cô Linh chứ không
còn ai nữa. Đúng là chỉ có khoảnh khắc này tôi mới tự xác nhận một cách chắc
nịch lần nữa rằng nàng đã là nàng và tôi đã là tôi, không còn là một đôi nữa.
Không cần nói tôi cũng đã rõ, không còn là hương nước hoa Romani Signorina thân
thuộc mà tôi đã từng kì kèo xin thiếu từng đồng từng cắc với lão già Luigi
người Naples khó tính có một tiệm nước hoa gần biển cách Roma vài chục cây số.
Giờ, trên sân khấu tôi chỉ thấy một mùi vương vấn của hiệu nước hoa xa xỉ với
sắc màu khó ở kiểu trưởng giả, làm điệu làm tịch, cái mùi hương chết tiệt do
một thằng Ý rặt nào đó ám vào cổ tay nhỏ nhắn của nàng. Tôi chỉ còn có thể tĩnh
tâm được khi nàng nói với tôi: “Anh dạo cho em bài Bésame Mucho nha”.
Ngồi xuống rồi bắt đầu bẻ hai tay rồi xoay cổ sao cho ra dáng một nghệ sĩ
chuyên nghiệp, sau đó tôi nháy nhỏ với thằng chitarrista Gennaro và batterista
Franco dạo một điệu nhạc thật mới. Khi ở trên sân khấu, trong ban nhạc, bắt
buộc bản thân luôn phải là người cầm hiệu chính, thật ra tôi thích mình phải là
người dẫn dắt như thế bởi tính kỷ luật của một vở diễn, luôn phải cần một huynh
trưởng làm trung tâm để giữ nhịp cho hơi thở nghệ thuật. Chưa kịp đợi hai đứa
bạn đánh nhạc ngồi xong xuôi, tôi dạo một khúc nhạc đầu bằng một màn đánh chạy
nốt do tôi tự nghĩ ra. Một đoạn nhạc dạo với điệu ballata lenta trầm lắng, chất
liệu sang trọng của dòng nhạc ballata mềm mại làm tóc gáy tôi dựng lên vì sung
sướng. Liếc mắt một xíu qua nàng, tôi nhận ra một chút ngập ngừng ở Linh khi
lần đầu nghe một điệu nhạc mới mẻ mà tôi pha vào không khí vui tươi hiện tại,
nó làm cho khán phòng nhỏ trở nên cô đọng thay vì là một điệu boléro Y Pha Nho
vui nhộn như mọi khi. Cảm xúc là thứ dễ lây lan, sau vài phút giây bỡ ngỡ, nàng
cũng bắt nhịp và lại làm người nghe say đắm bằng chất giọng vừa mềm mại vừa
trầm ấm.
“Bésame, bésame mucho
Como si fuera esta la noche
La última vez
Bésame, bésame mucho
Que tengo miedo a perderte
Perderte después”
Từng nhịp vỗ tay reo hò, tiếng ồn ào đã bị đánh tan đi để thay thế cho sự
trầm lắng, đôi lúc là vài điệu nhịp chân để lên tiếng thay cho khán giả đang
chiêm ngưỡng. Mải mê với bài diễn riêng của mình nên tôi chẳng hề để ý xung
quanh, trên sân khấu chỉ có cảm xúc thăng hoa mà thôi. Duy có vài lần tôi nghe
lão Piero hát cà lắp vài chữ như múa phụ họa với cô ca sĩ. Thấy gớm, lão già
giỏi Pháp văn lắm nhưng hát thì dở ẹc, còn không thuộc lời nữa chứ. Mấy điệu
nhạc tình đang tuôn trào cứ thế cào xước tâm hồn tôi, mãi cho đến khi thằng
Sandro thổi vài nhịp sassofono thì tôi không còn là người dẫn nhịp sân khấu
nữa, tôi để mặc cho trái tim nghệ sĩ dẫn dắt đôi tay mình. Nốt đàn càng mạnh
dạn thì con tim càng co thắt mạnh mẽ hơn, tôi mặc sức kéo cả dàn nhạc lẫn ca sĩ
chạy thật nhanh theo tiết tấu rồi lại thả nhỏ từng câu từ trên khuông nhạc. Tôi
sướng điên lên khi thấy khán giả đã chuyển từ vị trí của người chiêm ngưỡng
thành những kẻ khao khát được ban phát nghệ thuật, lúc ấy thì tôi đã biết trên
sân khấu nghệ sĩ đã là người chiến thắng cuối cùng. Trong vài phút giây ngắn
ngủi của bài diễn, tôi lại đâm khoái cái lời khen giả dối của thằng Thomas, rồi
sau đó tự mình phục lấy tài nghệ và độ cảm thấu thứ ma túy nghệ thuật này. Càng
về cuối bài hát, tôi đánh nốt càng trầm để tôn giọng hát của cô ca sĩ rồi sau
cùng tất cả nhạc cụ trên sân khấu chỉ còn lại nhiều nốt nhạc ngân thật dài,
chạy theo giọng ca nội lực của Limagne. Nàng cười thật tươi trong tiếng vỗ tay
từ mấy vị khách còn chưa hết choáng bởi hơi men của bài hát, cổ nàng mồ hôi đã
đổ thật đậm, minh chứng cho một buổi biểu diễn trên cả thành công.
Thêm một vài bài tình ca nữa vừa chấm dứt, là màn phục vụ bia Đức với
những điệu nhảy nhót khiêu vũ kiểu Tarantella. Tôi lại bất đắc dĩ một lần nữa
phải tiếp tục ngồi lại trên sân khấu, chúng tôi chuyển mấy điệu nhạc ballata
sang trọng qua đủ loại nhạc nhảy của miệt Latin, làm cho cả quán Nụ hồng trở
nên sôi động hẳn. Vài điệu nhạc nhảy không khó khăn để tôi tập trung hoàn toàn
nên thành ra dư thời gian vừa đàn vừa xem khán giả của mình nhảy múa. Tôi nhìn
Linh, nàng đang nhảy với thằng Thomas, rất vui tươi và hết mình đung đưa theo
từng điệu nhạc. Nhìn nàng lúc này như đóa hoa đang bật lên sức sống, vẻ nhịp
nhàng trong từng điệu nhảy làm tôi đôi lúc lơ đễnh đến nỗi chạm sai vài nhịp
đàn. Còn thằng Thomas thì dòm nó nhảy thôi người ta cũng biết tại sao đàn bà si
mê nó, ngay cả khi nó không là một diễn viên có tiếng. Cái cách nó ôm eo bạn
nhảy, cách nó đưa tay, liếm môi, ánh mắt sâu thẳm khi nhìn người khác và cái
cặp hông lắc dẻo quẹo như muốn buông lơi con mồi, một đêm đi bar thì chắc phải
vài cô chết đứ đừ vì cái vẻ liêu trai của thằng này.
Roma trong đêm có thể là một Roma trầy trật, bình dân như một Roma trong Racconti Romani của Alberto Moravia.
Nhưng đối với mấy gã thi vị hơn, hơn tôi nhiều, thì thị thành của đêm nay và
những ngày sau nữa luôn là Roma yêu đời và không ngủ. Quả thật, chúng tôi chơi
nhạc đến quá đêm, tiếng nhạc mừng sinh nhật vẫn réo rắc chưa dứt, nhưng chúng
tôi không sợ làm phiền ai cả. Tiếng nhạc tại Roma hiện diện khắp mọi nơi, không
là vài điệu sang trọng trong quán thì cũng là khúc dân ca của gã nghệ sĩ đường
phố ưa biểu diễn tối, của đám nhóc mới lớn thích nhảy hiphop Mỹ gần chỗ quảng
trường. Nhạc còn len lỏi luôn cả trong mấy khu ổ chuột, chỗ đám người vô gia
cư, họ bật nhạc và nằm sát vào nhau để tránh lũ du đãng cướp giật. Nhà thờ và
nhà hát của thành phố thì lúc nào cũng vang lên vài khúc thánh ca, nhưng đó là
ban chiều, còn ban đêm thì hai nơi ấy im lặng hẳn đi trái ngược với cái không
khí náo nhiệt từ mấy quán bar ăn chơi kiểu Mỹ. Ngay tại trong Nụ hồng cũng vẫn
mới vừa dứt tiếng nhạc, ai nấy đều mệt nhoài với ly Martini của riêng mình.
Một tiếng trôi qua, khách khứa vừa ngồi nghỉ ngơi vừa trò chuyện cùng nhau.
Đón lấy ly Tequila dell'Estremo Oriente, tôi uống ực liền hai ly cho đã khát,
mồ hôi trên cổ áo, trên trán nhễ nhại. Sở dĩ ai thấy lạ chứ ban nhạc bọn tôi
thì không, vừa đánh nhịp vừa nhún nhảy theo ca sĩ và khách mời là điều mà một
nghệ sĩ tâm huyết phải làm. Cho nên mỗi lần màn biểu diễn vừa kết thúc trông
bọn này cứ như vừa từ sàn quyền Anh về, nhưng khá may mắn là món quà trong túi
tôi đựng trong một cái hộp nhung thật cẩn thận nên cũng chẳng sợ có bị hư hỏng
hay không. Ngồi nghỉ giải lao một xíu xong, tôi lấy trong túi áo ra món quà,
không biết vì sao mà sau vài phút ngập ngừng tôi quyết định đánh hòa tấu bài
hát thay vì cất giọng của mình như một món quà đặc biệt cho lời chào kết tiệc.
Lần này tôi đem khán giả của mình trở về mặt đất với điệu nhạc chậm, vừa trầm
vừa nhẹ nhàng, tôi biến bài hát như một đoạn trường ca lãng mạn xen lẫn đau khổ
không nói thành lời. Đúng hơn thì tôi rất muốn nói, rất muốn hát nếu khung trời
hiện tại chỉ có hai đứa.
Bỗng dưng, nàng nhìn tôi, đôi mắt nhìn ngắm người biểu diễn làm tôi lúng
túng. Cả buổi tiệc chưa bao giờ chúng tôi bắt gặp ánh mắt nhau, điều mà tôi
trông chờ từ sâu trong đáy lòng. Nhưng lần này thì nàng nhìn tôi thật, nhìn
bằng con mắt không của người thưởng thức nghệ thuật và cũng không nhìn lên sân
khấu tổng thể. Linh nhìn thẳng vào mắt tôi vốn đang cố tình để đung đưa vô định
như tiếng đàn hiện tại. Nhưng cuối cùng thì tôi không làm được, mắt tôi vẫn bị
sức hút của ánh nhìn từ nàng thu hút, và một xíu run tay đã xuất hiện mặc dù
tôi vẫn sửa nó được kịp thời, nhưng đây là lần thứ hai mà tôi bỗng dưng lúng
túng khi đang trình diễn trong ngày. Nhưng cũng mau chóng, tôi dùng một chút ít
kỹ thuật để che đi nỗi xốn xang trong lòng, từ từ chạy tiếp tục một đường nhạc
thật dài và kết thúc với một nốt kép vừa cao vừa trầm. Tôi kết thúc buổi tiệc
với bài hát cuối cùng ấy cùng một tràng vỗ tay nồng nhiệt từ mọi người.

Nhận xét
Đăng nhận xét