Tân Tây Ban Nha, Tân Y Pha Nho, Mỹ Latinh, Thế giới mới là những danh từ được dùng cho các quốc gia trong khu vực Nam Mỹ và Caribe, những cộng đồng nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Họ là những khu vực cựu thuộc địa của hai đế chế hùng mạnh một thời ở bán đảo Iberia. Nhờ sự khai phá và những bước chân của những gã Latin can đảm mà thế giới thời hậu Trung Cổ đã bước sang một chương mới với ngành Hàng hải và Ngoại thương trở thành bộ mặt cho thế giới thời Phục Hưng và Cận đại. Trong đó, công lớn nhất phải kể đến hai quốc gia hưng thịnh một thời Y Pha Nho và Bồ Đào Nha. Không chỉ thay đổi xã hội của các quốc gia Nam Mỹ và Caribe trên phương diện kinh tế và chính trị, mà văn hóa Latin đã được truyền bá và gây ảnh hưởng sâu rộng trên toàn cõi tân thế giới. Trong đó, chúng ta có văn học là một trong những trào lưu văn hóa phát triển rực rỡ tại những quốc gia Latin Tân Y Pha Nho này. Vùng đất hải ngoại mà người Tây Ban Nha đã từng đặt chân đến đã sản sinh ra cho thế giới vô số thế hệ văn nhân tài năng tột bậc, với dòng văn học "chủ nghĩa hiện thực huyền ảo" được xem như một đặc trưng văn học của cả xứ sở Tân thế giới.
Trong giải Nobel văn học, cũng chưa bao giờ quên đi sự đóng góp của các nhà văn đến từ Tân thế giới và chúng ta có đến 6 nhà văn vô cùng tài năng đến từ Tân Y Pha Nho. Nào, trong bài viết hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu 6 vị văn nhân vô cùng tài năng của lục địa trẻ châu Mỹ nhé.
Gabriela Mistral (1945)
Người ta thường nói: "Phụ nữ là món quà quý giá của Thượng Đế" quả không sai, và tại xứ sở châu Mỹ của Tân Thế giới, chúng ta có Gabriela Mistral, một nữ thi nhân Chile và là người phụ nữ đầu tiên của Tân Tây Ban Nha dành được danh hiệu Nobel văn học với lời nhận định "lời thơ đậm chất trữ tình, lấy cảm hứng từ những xúc cảm mãnh liệt đã làm cho tên tuổi cô trở thành một biểu tượng cho khát vọng và lý tưởng sống của thế giới Mỹ Latin".
Gabriela bắt đầu sự nghiệp sáng tác thơ của mình vào năm 1914 với tác phẩm Sonnets on Death, trong những năm 1910s - 1920s, bà vừa hoạt động trong lĩnh vực văn học vừa mang bên mình công việc nhà giáo cao quý. Về sau, sự nghiệp thơ văn của bà gắn liền với nhiều trọng trách quan trọng mang tính quốc tế hơn, năm 1925 Gabriella đại diện cho Mỹ Latin tham gia Viện hợp tác Trí tuệ của Hội quốc liên. Giống như nhiều nghệ sĩ Mỹ Latin, bà có nhiều chuyến đi vừa làm vừa trải nghiệm trong đời, từ Naples, Madrid, Lisbon, Puerto Rico hay New York, ở đâu cũng đón chào bước chân ghé đến của Gabriella. 10-12-1945, bà được đích thân Đức vua Thụy Điển Gustaf V trao giải thưởng Nobel văn học danh giá.
Miguel Ángel Asturias (1967)
Ông nhận giải năm 1967 với lời nhận xét "Vì những thành tựu văn học sống động của ông, chúng mang nguồn gốc từ những đặc và truyền thống con người Ang điêng ở Mỹ Latin". Trong lời nhận xét từ Viện hàn lâm Thụy Điển ta sẽ dễ dàng hình dung ra được văn phong của Miguel có phảng phất màu sắc của dân tộc học hoặc nhân học. Chính xác, chính khoảng thời gian sống tại Âu châu, đặc biệt là Paris, nơi chứng kiến tài năng văn học của ông phát triển mạnh mẽ. Sự pha trộn giữa tri thức về ngành dân tộc học và chủ nghĩa Siêu thực châu Âu đã khiến ông trở thành một nhà văn Mỹ Latin tiêu biểu cho phong trào Latin American Boom- phong trào văn học bùng nổ mạnh mẽ trên toàn thế giới vào những năm 1960- 1970.
Như bao nhiêu người Mỹ Latin vốn đang bị xoay mòng mòng bởi các làn sóng phong trào chính trị nở rộ vào những năm 50,60, Miguel phải lưu vong vì bị cho rằng ủng hộ tổng thống vừa bị lật đổ của Guatemala. Ông dành nhiều năm sống ở Argentina và Chile và sau đó là Genoa, Ý. Tuy cuộc sống lưu vong, rày đây mai đó đầy khó khăn nhưng tên tuổi ông trong văn đàn quốc tế thì không bao giờ suy giảm thậm chí ông còn phát hành cho mình cuốn tiểu thuyết Mulata de Tai (1963) trong thời gian sống tại Genoa. Ông cũng sớm được phục hồi quốc tịch Guatemala vào năm 1966 và làm đại sứ tại Pháp, nơi ông dành nhiều năm để học và nghiên cứu cho việc sáng tác của mình.
Pablo Neruda (1971)
Nhà thơ người Chi lê được trao giải vào năm 1971 với lời nhận xét: "đối với một nền thơ mà với tác động của một lực lượng nguyên tố mang lại vận mệnh và ước mơ của một lục địa". Pablo Neruda có một sự nghiệp văn chương và cuộc đời khá sóng gió. Với văn chương ông là một nhà thơ đa tài, có thể biến hóa tài năng cầm viết ở mọi thể loại từ tuyên ngôn chính trị, cuộc sống cho đến thơ tình. Về mặt cuộc sống riêng tư lại là một hành trình phức tạp vì vào thời điểm những năm 60,70,80 Mỹ Latin ngập chìm trong những bất ổn chính trị, Pablo là một cựu đảng viên của đảng Cộng sản Chile nên không lạ gì khi cuộc đời riêng tư của ông không lúc nào được sống yên ổn.
Neruda thường được coi là nhà thơ quốc gia của Chile, và các tác phẩm của ông đã được phổ biến và có ảnh hưởng trên toàn thế giới. Tiểu thuyết gia người Colombia Gabriel García Márquez từng gọi ông là "nhà thơ vĩ đại nhất của thế kỷ 20 bằng bất kỳ ngôn ngữ nào", và nhà phê bình Harold Bloom đưa Neruda vào vai một trong những nhà văn trung tâm với truyền thống phương Tây trong cuốn sách The Western Canon của ông .
Gabriel García Márquez (1982)
Là một nhà văn chuyên ngữ Tây Ban Nha, nổi tiếng với bạn đọc trên toàn thế giới và là một ngọn cờ đầu trong văn học chuyên về chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, một dòng nghệ thuật văn chương kết hợp những điều huyền bí và chủ nghĩa hiện thực. Gabriel nhận giải Nobel năm 1982 với lời nhận xét "đối với tiểu thuyết và truyện ngắn của anh ấy, trong đó điều kỳ diệu và hiện thực được kết hợp trong một thế giới trí tưởng tượng phong phú, phản ánh cuộc sống và những xung đột của lục địa".
Lĩnh vực văn chương của ông vô cùng đa dạng từ tiểu thuyết, truyện ngắn cho đến kịch bản phim. Nổi tiếng nhất có lẽ là tác phẩm Trăn năm cô đơn lấy bối cảnh ở Colombia nơi Gabriel lớn lên.
Octavio Paz (1990)
Tuy không nổi tiếng ở Việt Nam và châu Á nhưng ở Mỹ Latin và Âu châu, Octavio lại vô cùng tiếng tăm trên cả lĩnh vực văn chương lẫn chính trị. Ngài nghị sĩ nhận giải Nobel năm 1990 với lời nhận xét những tác phẩm của ông "dành cho những bài viết say sưa với tầm nhìn rộng lớn, được đặc trưng bởi trí thông minh nhạy bén và tính nhân văn trọn vẹn".
Bỏ qua một bên chủ nghĩa tự do chính trị vốn là lý tưởng suốt cả cuộc đời chính trường của mình, ông đã gặt hái được vô số giải thưởng văn học lớn trên thế giới từ giải Giải thưởng Jerusalem 1977, Giải thưởng Miguel de Cervantes 1981 cho đến Giải thưởng Văn học Quốc tế Neustadt 1982. Và tất nhiên, chủ nghĩa tự do phóng khoáng là chất liệu nghệ thuật chính được ông sử dụng thuần thục xuyên suốt các tác phẩm của mình. Giống như nhiều người đồng nghiệp Mỹ Latin khác, nhà văn người Mexico có một cuộc đời văn chương gắn liền với sự nghiệp chính trị trắc trở vốn là một nét văn hóa hỗn loạn của Nam Mỹ vào thời điểm chính trị dữ dội của thế kỷ trước.
Mario Vargas Llosa (2010)
Mario Vargas Llosa là nhà văn Mỹ Latin gần nhất đoạt Nobel văn chương vào năm 2010 với lời nhận xét "cho bản đồ của ông ấy về các cấu trúc quyền lực và những hình ảnh hào hùng của ông ấy về cuộc kháng chiến, cuộc nổi dậy và thất bại của cá nhân". Ông là nhà văn đã đưa chính trị, đặc biệt là chính trị Peru trở thành chủ đề chủ đạo trong nhiều tiểu thuyết của mình. Thậm chí đã từng trở thành một ứng cử viên tổng thống của Peru vào năm 1990.
Ngoài vai trò là một tiểu thuyết gia, Vargas Llosa còn là một nhà báo chuyên mục, tiểu luận và nhà viết kịch với công việc kéo dài nhiều thập kỷ. Cuốn tiểu thuyết mới nhất của ông, Five Corners, một bài phê bình về thực trạng chính trị và báo chí ở Peru trong những năm 1990. Cuốn sách trở nên nổi tiếng và phổ biến tại quê nhà.
Lia Thia
Nhận xét
Đăng nhận xét