CA NHẠC SĨ TRẦN THIỆN THANH: GÃ LÍNH TRẬN TRONG HÌNH HÀI NGHỆ SĨ

Trong những năm 1960-1970, ở Sài Gòn hòn ngọc Viễn Đông xinh đẹp không ai là không biết đến danh tiếng của tứ trụ danh ca nổi danh khắp miền Nam. Họ là danh ca Hùng Cường, Chế Linh, Duy Khánh và Nhật Trường Trần Thiện Thanh, sở dĩ gọi họ là tứ trụ bởi cả bốn đều là những nghệ sĩ vừa đa năng vừa tài ba, là những danh ca chuyên trị dòng nhạc bolero trữ tình, vừa sở hữu chất giọng đặc biệt và vừa có thể sáng tác cho riêng mình những khúc nhạc riêng, bất hủ theo dòng thời gian. Một trong số ấy phải kể đến đầu tiên là nhạc sĩ Trần Thiện Thanh hay danh ca Nhật Trường, một người được mệnh danh là "thiên thần của những người lính" nhờ những bài ca về lính của ông được sáng tác dành riêng để ca ngợi cuộc đời những chàng trai của chiến trận, những bài ca bolero đậm chất dân ca miệt vườn và giọng hát mềm mại, trong như nước hồ thu. 

Trần Thiện Thanh (1942-2005), hay còn có nghệ danh khác khi đi ca là Nhật Trường, nguyên quán ở Phan Thiết. Ông vào Sài Gòn năm 1958 và theo học, tốt nghiệp trường Hạ Sĩ quan năm 1965, phục vụ tại cục Tâm lý chiến cho đến cuối tháng 4 năm 1975. Ông cũng từng làm việc tại Đài Phát thanh và Truyền hình quân đội, từng là Trưởng ban văn nghệ của đài và sau năm 1968 ông còn phụ trách thêm phóng sự chiến trường. Nhờ từng học trong trường quân đội, làm việc trong ngành truyền thông liên quan đến nghệ thuật cho lính mà nhiều bài hát của danh ca Nhật Trường luôn đậm đà chất liệu trữ tình dành cho người lính tiền tuyến. Mặc dù sáng tác nhạc cho lính, là dòng nhạc liên quan đến chiến trận nhưng lời nhạc của Trần Thiện Thanh rất đẹp, rất thơ, không có câu ca độc địa, bi thảm. Người nghe không thể nào không xao xuyến với lời nhạc "Không trách em yếu mềm khi con tim đơn côi, không trách em dối lòng khi con tim buồn tủi" trong Anh về với em hay "Nếu em không là người yêu của lính, ai mang cánh hoa rừng về tặng em, ai mang gió sương cho em đợi chờ, ai kể chuyện đời lính em nghe" trong Người yêu của lính. Những lời ca đó, cất lên như một tiếng nói của ái tình nghệ thuật, mềm mại nhưng không ủy mị, vừa lộng lẫy vừa hùng ca bi tráng. 

Ngoài nhạc cho lính, nhạc quê hương là một sở trường khác nữa của nam nhạc sĩ, câu ca và điệu nhạc mà Trần Thiện Thanh chọn dễ khiến người ta nhớ đến những điệu nhạc dân ca miền Nam, lời ca trong veo, đằm thắm và chất phác. Chiếc áo bà ba, Tình đẹp Hậu Giang, ... những bai hát điển hình mang làn điệu dân ca thân thuộc đã trở thành "bài hát quốc dân" từ những bài hát phát trên Youtube, karaoke, nhạc acoustic, đêm nhạc dân ca,... đâu đâu cứ nhạc mang hơi hướm bolero, dân ca ta đều nghe những bài hát của Nhật Trường. Và sự thật rằng, "Chiếc áo bà ba bên dòng sông thăm thẳm, thấp thoáng con đò ghé gọi khách sang sông" đẹp đến nỗi người nghe đôi lúc cứ ngỡ nó là giai điệu của dân ca, chứ không phải là bài hát từ một nghệ sĩ tài năng như Nhật Trường nữa. 

Đẩu thập niên 1960, ông thành lập ban nhạc Tứ ca Nhật Trường với ông, Như Thủy (em gái ông), Vân Quỳnh và Diễm Chi. Ngoài ra, ông còn điều hành trung tâm phát hành nhạc, mang tên Tiếng hát đôi mươi vào đầu thập niên 1970. Cũng như bao nhiêu nghệ sĩ miền Nam tài năng phải chịu đợt càn quét của chiến tranh ác liệt, ông cũng nhanh chóng mất đi sân khấu diễn của mình, mất đi những ngươi khán giả yêu quý nhạc của mình. Mãi đến khi sang Mỹ với con trai, ông mới lại biểu diễn lại những ca khúc do mình sáng tác. Ở hải ngoại, ông đã hợp tác với rất nhiều những trung tâm ca nhạc lớn của người Việt hải ngoại như Mây Production, Asia, Làng Văn, Hoàn Mỹ,.... và Nhật Trường cũng sở hữu cho riêng mình một trung tâm ca nhạc ở hải ngoại với cái tên Nhật Trường Productions.

Mặc dù ở Mỹ khá lâu nhưng cuộc sống lưu diễn của ông không phải lúc nào cũng được suôn sẻ, đến Mỹ từ năm 1993 nhưng cũng vẫn chỉ được lưu diễn trong nước Mỹ mà thôi. Mãi cho đến năm 2004, trước một năm ngày nhạc sĩ mất, ông mới được cấp phép lưu diễn ở ngoài nước Mỹ. Ngày 27- 02- 2000, ông cùng Mỹ Lan và một số thân hữu xuống đường hát rong tại thành phố Westminster nhằm mục đích gây quỹ xây dựng tượng đài Chiến sĩ Việt-Mỹ. Ông cho biết: "Đây là một hành động tự nguyện, xuất phát từ tấm lòng yêu mến, kính trọng và tưởng niệm người lính Việt Nam Cộng Hòa trong tâm hồn và trái tim tôi. Tôi cảm thấy mình cần làm một điều gì đó để đóng góp cho việc xây dựng tượng đài người lính VNCH đầu tiên trên đất Mỹ nói riêng và Hải ngoại nói chung trong lúc những tượng đài đó ở trong nước sau năm 1975 đã không còn - kể cả một bức từng mang tính chất nghệ thuật là "Tiếc Thương" cũng đã bị hủy diệt dưới bàn tay Cộng Sản". Buổi hát rong đã thu về hơn 15000 USD tiền quyên góp. Ngày nay, tượng đài Chiến sĩ Việt - Mỹ được xem như là một biểu tượng của người Việt Nam ở hải ngoại.

Trần Thiện Thanh không chỉ là một danh ca sở hữu chất giọng mềm mại, trầm ấm mà tài năng sáng tác của ông cũng rất được công chúng yêu mến. Trước năm 1975, khi còn ở miền Nam, các sáng tác của ông được xuất bản và trình diễn thường xuyên, sô lượng rất lớn và lớn hơn cả lượng bài hát ông viết sau năm 1975 đến cuối đời. Tính tổng cộng những bài nhạc đã sáng tác từ khi đi hát đến lúc mất, ông đã sở hữu cho riêng mình 143 bài nhạc với đa dạng các thể loại từ nhạc dân ca, tinh ca đến nhạc lính. Khỏi cần phải nói, âm nhạc của Trần Thiện Thanh vẫn giữ được ý tứ, lời nhạc và câu ca tiếng Việt rất đẹp, rất trong sáng, những câu chuyện được kể dù có là trải nghiệm đầy khoái lạc cũng không hề cảm thấy gượng ép, thô tục mà rất mượt mà, dễ thương. Hơn nữa, âm nhạc của cố nhạc sĩ luôn đồng điệu với sở thích của quần chúng, đúng hơn âm nhạc Trần Thiện Thanh chính là phong cách mà đại chúng mong mỏi, đủ sức trở thành một phần của dân ca Việt Nam.

Tài năng và thành công, cũng thường đi chung với chữ đoản mệnh, người nghệ sĩ Phan Thiết ra đi khá sớm ở tuổi 63, độ tuổi bắt đầu ngồi ghế và nhận được những cái lạy kính trọng từ các hậu bối. Ông ra khi tại nhà riêng ở Westminster với căn bệnh ung thư phổi, biến chứng do thói quen nghiện hút thuốc lá nặng của mình. Điều đặc biệt vao cuối đời của ca nhạc sĩ, ông vốn theo Phật giáo từ lúc nhỏ, tuy nhiên ông đã cải đạo và chịu phép Rửa tội một tháng trước khi ra đi. Ông va Mỹ Lan, đã chung sống nhưng không có hôn thú sau một lần tan vỡ, cũng đã nhận phép Hôn phối theo nghi thức Công giáo để hai người chính thức trở thành vợ chồng với nhau, một cái kết đẹp, khi ông được lãnh nhận ơn Thiên Chúa và trở thành một bằng hữu Kitô bất phân ly với người vợ của mình. Một cái kết đẹp, một đời tài hoa và sự ra đi đáng thương nhớ của một huyền thoại, một vị vua không ngai của dòng nhạc lính.

Lia Thia

Nhận xét