Chiến tranh, cụm từ dường như ngoài những kẻ có tư tưởng độc tài toàn trị ra thì hầu như không ai thấy mặn mà khi nhắc đến nó dưới danh nghĩa là một người tham gia, mặc dù chủ đề về những chiến trận cuồng si luôn làm phấn khởi sự tò mò của con người. Người ta sợ chiến tranh, nhất là sợ chính bản thân mình phải là một phần của chiến tranh hoặc là một phần của hậu quả chiến trận. Nhưng số phận thường không chiều ý cho hầu hết loài người trên cõi trần gian, một nửa địa cầu của chúng ta vẫn chìm trong chiến tranh, nếu không thì là những bạo lực, những trận khủng bố, thảm sát xảy ra khắp nơi và vi vậy, loài người luôn bị PTSD với chiến tranh và những hậu quả mà nó đem lại. Nhất là những người đã từng ở, từng sống trong chiến tranh, nỗi ám ảnh về sự sống và cái chết, tự do và kìm kẹp luôn là sợi dây mỏng manh tựa như sợi dây cho các nghệ sĩ xiếc đi trên dây. Và cuộc đời của những con người ấy, trong cuốn nhật ký cuộc đời của họ luôn có một dấu mộc đỏ chói như để chứng minh sự tồn tại của nó, dấu mộc "Đã đi qua Chiến tranh".
Erich Maria Remarque, có vẻ như cũng không nằm ngoài nhóm người ấy, chiến tranh đã trui rèn và đem ông đến gần hơn với độc giả của mình, qua những tác phẩm lịch sử, chiến tranh và tị nạn đầy lôi cuốn. Và tất nhiên, chiến tranh và hậu quả của nó luôn là chất liệu chính tạo nên nguồn cảm hứng cho nhà văn người Đức. Người ta chán ghét cảnh chém giết, tù đày và bức hại nhau, người ta né tránh nó, và chỉ nhắc đến nó như một nỗi đau. Đó là những người đã bước qua thời khắc của tử thần, nhưng với Erich, ông đã biến nỗi ám ảnh và sự thèm khát máu đỏ của nhân loại thành một bức màn nhung của văn chương, để khi vén lên, người ta phải chiêm ngưỡng những điều khủng khiếp dưới con mắt của những kẻ khao khát nghệ thuật. Hơn 90% tác phẩm đã được xuất bản hầu hết đều gắn liền với nhiều biến cố trong cuộc đời của ông. Nói cách khác, những tác phẩm ấy cũng chính là cả cuộc đời của ông, con người của Erich, chính nỗi niêm của Erich, thấm đẫm chủ nghĩa hiện thực và lòng nhân đạo, bác ái.
Sống, trưởng thành, thành danh và gặp biến cố, cả cuộc đời từ tuổi trẻ trở về sau, đầy thăng trầm của nhà văn Erich gói gọn trong khoảng thời gian căng thẳng nhất của Âu châu và toàn thế giới. Hẳn lão là một trong những người hiếm hoi trải nghiệm được nhiều số phận khác nhau của một con người Âu châu trong năm thập niên đầu tiên của thế kỷ XX. Một người lính của Đệ nhất thế chiến, một nhà văn thành đạt trong những buổi tiệc sang trọng của giới tài phiệt, lẩn trốn như một người tị nạn chính trị rồi mất khi không còn cơ hội trở về quê hương. Và đau đớn, cũng tủi nhục nhất, là nơi mình từng nghĩ rằng sẽ yêu đến suốt đời, nước Đức, quê hương bỗng chốc hóa thành kẻ thù hận không cùng chiến tuyến. Chính quãng đời và cuộc sống phiêu lưu hồ hải nằm lọt thỏm giữa hai cuộc thế chiến là cảm hứng lớn nhất ảnh hưởng đến ngòi bút của nhà văn. Ông ưa chuộng lựa chọn những chủ đề chiến tranh bởi nó mới là vùng đất mà ông bộc lộ hết được chủ nghĩa hiện thực và tinh thần phản chiến của mình, tác phẩm Bản du ca cuối cùng, Lửa yêu thương lửa ngục tù,... là những ví dụ điển hình cho dòng tác phẩm phản chiến.
Thời điểm đi lính, khi ấy nhà văn mới vừa bước qua tuổi 18, bộ quân phục Đức còn chưa vừa người thì những cậu bé cùng trang lứa như ông đã vội khoác bộ cánh của người anh hùng. Quả thật trong suốt thời gian đi lính là một trải nghiệm vừa khủng khiếp, vừa ám ảnh nhưng cũng vô cùng quý giá cho chàng thanh niên Erich bởi ông được nếm trải trọn vẹn sự khắc nghiệt, vô nhân đạo và điên rồ của cuộc chiến, điều trở thành những nhân chứng sống trong cuốn tiểu thuyết Phía Tây không có gì lạ của ông, cuốn sách đã tạo nên tiếng vang chưa từng có trong cộng đồng các tác giả châu Âu thơi bấy giờ. Sự ra đời của cuốn tiểu thuyết ấy đã kéo theo sự ra đời của bộ phim cùng tên vào năm 1930, cộng hưởng với những lục đục chính trị trong lòng xã hội Đức những năm 1930s mà tên tuổi của ông trở nên nổi tiếng muôn phần. Nhưng nụ hoa nào nhanh nở thì cũng chóng bị tàn phai, ông dành cả thập niên 30 để trốn chạy nanh vuốt của Đức Quốc xã vì chế độ độc tài của Hitler ghép ông vô tội " là kẻ thù của nhân dân" và là người Do Thái, còn tác phẩm của ông thuộc loại tác phẩm "đi ngược với giá trị của người Đức".
Số lượng tác phẩm của Erich được xuất bản khá đều đặn, vẫn lấy tiêu chuẩn là chiến tranh nhưng bối cảnh văn học của ông có sự phát triển theo từng năm chứ không bó buộc vô một thời điểm, hoàn cảnh cụ thể. Cuốn Phía Tây không có gì lạ (1929), ông miêu tả chân thực hoàn cảnh sống quá sức chịu đựng của một người lính Đức trong Đệ nhất thế chiến thì trong thập niên 30, hai cuốn tiểu thuyết Đường về (1931) và Ba người bạn (1936) là hai cuốn tiểu thuyết nói về nỗi niềm, sự loay hoay tìm cách hòa nhập lại với cuộc sống "không bao giờ công bằng" của những người đã từng khoác áo lính. Cuối năm 1939, tác phẩm Liebe Deinen Nächsten thì thời gian mới bắt đầu có sự chuyển mình rõ rệt khi cuốn tiểu thuyết đem chúng ta đến với những năm đầu triều đại Đức quốc xã và trong những năm 40,50 là câu chuyện về những nạn nhân của cuộc Đệ nhị thế chiến, Erich vẫn giữ việc chú trọng xây dựng hình tượng nhân vật qua những thân phận hậu chiến, người tị nạn, sĩ quan Phát xít,..
Trải qua hai cuộc thế chiến, vẫn là bối cảnh của chiến trận đôi khi pha thêm những sắc màu của các thành phố, cộng đồng của những xã hội đang nằm trong thời chiến, tuyến nhân vật chính của mỗi tác phẩm vẫn rất đa dạng, trải dài mọi tầng lớp người, hầu như lớp người nào cũng có thể dễ dàng trở thành một trong những xương sống trong tác phẩm của nhà văn. Điều này ta cũng có thể dễ hiểu rằng, ông đã từng trải qua mọi thăng trầm cuộc đời, từ cuộc đời một người lính, một người thầy, một gã nhà giàu hào nhoáng, tên Do Thái lưu vong và lão già si tình nhưng chết mà vẫn không thấy được tiếng khóc quê hương, gần như Erich Maria Remarque đã hóa thân trọn vẹn vào mỗi kiểu người mà ta đã từng nghĩ thoáng qua trong đầu của mình. Đó là câu trả lời cho lý do vì sao tuyến nhân vật của ông lại đồ sộ nhưng sống động, chân thực đến thế. Trong Phía tây không có gì lạ (1929), ta bắt gặp hình ảnh mệt nhoài, chán nản tuyệt vọng của người lính Đức trong cuộc Đệ nhị thế chiến. Trong Bóng tối nơi thiên đường (1971) là thân phận của anh nhà báo Do Thái, người đã dành hai năm trốn tránh thảm họa diệt chủng trong một viện bảo tàng châu Âu, đôi vợ chồng chưa cưới người Đức Do Thái cùng cuộc hành trình lưu vong từ Áo đến Tây Ban Nha, ba người bạn cựu binh hay tên tù nhân Do Thái 407 bị giam ở trại tập trung Đức, tất cả những kiểu người mà ta không thấy họ mang một dáng vẻ gì nổi bật đều trở thành bất tử trong tác phẩm của Erich.
Nhờ chiến tranh và cuộc đời lên voi xuống chó của chính Erich mới đúng là những cơ hội, tuy khắc nghiệt nhưng quý giá để nhà văn có thể bộc lộ mọi quan sát va tài năng văn chương của mình. Nghệ thuật câu chữ với nhà văn người Đức không quá quan trọng, nhưng nghệ thuật biến câu chữ thành sự thật và nỗi niềm muốn bộc lộ mới là vũ khí sát thương cao nhất của ông. Đó chính là những viên gạch mà ông xây dựng trong từng cuốn sách đậm đà hương vị của chủ nghĩa hiện thực, đôi khi lãng mạn, đầy hy vọng nhưng cũng đôi lúc u tối. Với tất cả những cuốn tiểu thuyết của Erich Maria Remarque, ta không cần bất kỳ cuốn giáo trình sử học nào, cũng chẳng cần một historical game hay bộ phim lịch sử nào để chúng ta hiểu hơn về lịch sử. Và chắc gì những thứ ấy đã có thể đi sâu đến nỗi trái tim con người là điểm đến văn học cuối cùng? Với Erich, với tác phẩm của Erich, đó mới chính là lịch sử.
Lia Thia
Nhận xét
Đăng nhận xét