THE PIANIST (2002): ĐOẠN TRƯỜNG CỦA SỰ SỐNG

Điều gì khiến con người không thôi tò mò bởi sức sống của nó? Điều gì chính bản thân nó trở nên bất hủ, không bao giờ phai phai mờ theo thời gian? Điều gì có khả năng đập tan nghi ngờ để bám giữ tâm trí ta lâu nhất? Đó chính là những câu chuyện có thật, vì tự truyện sẽ luôn sống mãi với những sự thật, những trải nghiệm và chân lý không thể nào bị xô đổ bởi chính nhân vật đã trải qua trong khoảnh khắc ấy. Sự thật, luôn là yếu tố tạo nên gia vị cảm xúc cho mỗi câu chuyện được chia sẻ. Và cảm xúc, sự đồng cảm, là thứ dễ lây lan. 

80 năm ngày xưa, người ta vẫn còn chưa thôi ám ảnh cơn bão cuồng nộ của Đệ nhị thế chiến, lưỡi hái của thần chết Quốc xã đã biến thế giới tươi đẹp thành một nấm mồ tập thể. Đỉnh điểm vào giai đoạn từ 1941- 1945, cuồng phong Holocaust quét qua ngõ ngách của Âu châu, bắt bớ và nhấn chìm mọi thân phận Do Thái vào vòng xoáy của diệt chủng. Đó chính là kế hoạch “tinh gọn dân số” của Đức quốc xã, khiến nhiều lớp người Do Thái ra đi vĩnh viễn, một cách oan ức. Ở thời điểm đó, trốn chạy là con đường duy nhất để sinh tồn, dẫu là Áo, Ba Lan, Pháp hay Tây Ban Nha. Còn không, cuộc sống địa ngục của trại tập trung luôn luôn chào đón và một tay khép cánh cổng sự sống với quãng đường chỉ còn vỏn vẹn là trại lao tác và lò thiêu. Wladyslaw “Wladek” Szpilman, một nhân chứng sống đã trải qua những đêm trường kinh hãi dưới họng súng của phát xít Đức, nỗi ám ảnh và căn bệnh PTSD trầm trọng đã khiến cho hồi ký The Pianist ra đời. Từ cuốn hồi ký đó, Andrzej Szpilman con trai Wladek đã đem nó xuất bản rồi đạo diễn Roman Polanski đã khiến cho “ký ức Do Thái” trở nên bất tử bằng bộ phim mà chính tay nghệ sĩ trẻ Wladek là nhân vật chính.

Bộ phim dựa trên cuốn hồi ký của Władysław Szpilman nên Wladek nghiễm nhiên đóng vai chánh trong phim, mọi cảm xúc, biến cố cao trào đều chạy sượt qua khung hình và đọng lại dưới đôi mắt của Wladek. Cái hay mà cũng là cái để người ta tưởng bở ở Roman Polanski, bước vào bộ phim người ta cứ ngỡ tiếng đàn mà Wladek đệm sẽ đồng điệu với tiếng hô quyết tử vì đất mẹ Ba Lan của các chiến binh Đại bàng trắng. Rồi cái cảnh lưỡi lê cắm vào da thịt, cái xẻng chặt đôi mũ nồi xám, Ba Lan đổ máu vì đất mẹ sẽ diễn ra thật hào hùng. Không, hàng phát đại bác mới là giai điệu hòa cùng bản hòa tấu của Wladek, thành một bản bi ca khóc thương cho thủ đô. Và, đạo diễn Roman đã ném người xem và Warszawa vào tay người Đức. Từ đó, ánh mắt và trái tim người xem giờ chỉ còn gói gọn vào cái đói nghèo, sự lo sợ những chiếc bóng xám đen và khung cảnh thảm hại của xã hội chuột nhắt bên rìa một Ba Lan đổ nát. 

Gia đình Wladek và cả xã hội Warszawa nhanh chóng rơi vào sự kiểm soát nghẹt thở của lính SS, Wladek đã phải vật lộn điên dại để mong được sống bình an trong trại tập trung nơi mà người chết đói nằm rạp trên đường, lũ người quý phái lẫn nghèo hèn chui rúc nhau trong một thành phố chật chội, không tình người. Anh may mắn được sống nhờ Itzhak cứu mình khỏi chuyến tàu hơi ga, anh sống cô đơn một mình trong thành phố và lại phải tiếp tục vật lộn để sinh tồn bằng cách lao động nô lệ cho Đức quốc xã. Sau cùng, Wladek dũng cảm đón nhận cuộc sống lưu vong nhờ sự giúp đỡ của Dorota, anh được sĩ quan Đức Wilm Hosenfeld giúp đỡ và cùng nhau chơi một bài nhạc của Chopin.

 

Để coi được cả bộ phim, người ta có lẽ nên chuẩn bị sẵn cho mình những bình oxy nếu không muốn bị không khí nghẹt thở của phim nhấn chìm. Bối cảnh Wladek và gia đình trong trại tập trung là bức tranh tổng thể của một xã hội nơi “bọn Do Thái” chui rúc lúc nhúc, giành giật miếng ăn, sự sống trong nơm nớp sợ hãi. Người ta, ở đây là người Do Thái, cựu binh Ba Lan và cả người xem dễ bị ám ảnh, thậm chí bị PTSD cảm xúc khi chứng kiến cuộc sống thực sự của người Do Thái trong trại tập trung ở  Warszawa. Sao lại không hồi hộp cho được khi chỉ cần một tiếng đạp cửa, một tiếng gằn “du, komm her” là người xem lại nhắm mắt tiếc thương sắp có một mạng người nằm xuống, nhưng dường như không đúng, mạng sống trong phim được đẩy lên cao trào đến mức người ta không còn biết ai là nhân vật chính khi người đứng giữa lằn ranh sống và chết lẫn lộn vô nhau. Cái cảnh khắc nghiệt mà lính SS đã gây ra trên quê hương Ba Lan được Polanski chia thành ba giai đoạn, và ba giai đoạn ấy cũng được gói gọn vào ba cuộc hành trình của Wladek Szpilman. Mỗi cuộc hành trình đều có cái khắc nghiệt của riêng nó, Wladek trong mỗi giai đoạn cũng là một Wladek hoàn toàn mới duy chỉ có cái luật bất thành văn “hễ là Do Thái thì bị bắn” là không thay đổi.

Cuộc sống đầu tiên, vẫn luôn là Nghệ thuật của đám đông hỗn loạn, dường như đây là yếu tố chính phải luôn được xuất hiện ở mọi bộ phim mang hơi hướm xã hội học. Một xã hội Do Thái Ba Lan hiện lên không khác gì một đám chuột chui rúc trong lồng nhốt, trại tập trung của SS đã gom đủ mọi hạng người lại với nhau. Đám người quý phái vẫn còn tỏ vẻ thanh cao, đám bình dân thoi thóp sống trong cảnh nơm nớp thiếu ăn, bị giết và giá lạnh còn lũ người dưới đáy xã hội; người già, đám vô gia cư và lũ tâm thần thì tràn ngập hang cùng ngõ hẻm của bộ phim làm người ta vừa nghẹn lòng vừa ngộp thở bởi dòng chảy toàn người là người. Cuộc sống đầu tiên của Wladek không hề có tình người, chỉ có sự sinh tồn và sinh tồn mà thôi. 

Nhưng ít ra trong khoảng thời gian này, ta còn thấy được Wladek đã vật lộn vất vả thế nào để cứu giúp gia đình và anh còn có thể kiếm sống bằng tài năng âm nhạc của chính mình, đạo diễn Roman Polanski đã khôn khéo lồng ghép tất cả những vở soạn nhạc của thiên tài Frédéric Chopin trong mọi bài diễn của Wladek. Một hành động nhằm tôn vinh phẩm chất của con người Ba Lan, và cũng không trùng hợp lắm khi Polanski cũng chính là người Ba Lan, cầm trịch và tạo nên một tác phẩm nghệ thuật để vinh danh cho người Ba Lan thành thử xuyên suốt bộ phim, phần nhạc nền cũng là phần trình diễn cho khán giả cảm nhận thứ được gọi là âm nhạc Ba Lan.

Phải nói rằng dân tộc Ba Lan và Do Thái tuy không bước ra cùng một nguồn gốc nhưng số phận không khác gì nhau, đều chịu sự chèn ép và đồng hóa của rất nhiều dân tộc khác trên thế giới. Và sau chót, họ lại là những con người dũng cảm nhất mà lịch sử nhân loại từng chứng kiến. Vậy thì để ghép được hình tượng một người Ba Lan mang dòng máu Do Thái còn khó gấp ngàn lần. Nhìn qua dàn diễn viên mới nhận ra Roman đã lựa chọn diễn viên kỹ lưỡng đến cỡ nào, không có một người Pháp, người Ý hay người Nga nào đảm nhận các vai diễn trong The Pianist, Roman trao vai diễn Wladek cho Brody một người Mỹ Do Thái, cũng như các diễn viên khác mang dòng máu Do Thái luôn được sắp xếp đến với những vai diễn người Do Thái, bởi chỉ có họ mới là người có thể kết nối, và cảm nhận được nỗi đau, sự tiếc thương thấu trời của tiền nhân từ 60 năm trước. Tính chủng tộc trong phim thường rất bị kỳ thị và nhạy cảm, nhưng để biểu diễn những vai chủ chốt trong phim như người Do Thái, người Đức thì chỉ cái quốc tịch không thì chưa đủ, dòng máu Do Thái vẹn toàn mới khiến cho diễn viên trở nên thăng hoa vì họ đang sống bằng chính cảm thức của dân tộc mình. 

 

Vì vậy mà với một vai diễn người Do Thái, Brody đã thể hiện vô cùng xuất sắc bằng cả trái tim và dòng máu Do Thái chảy trong con người anh. Phân khúc nghẹt thở nhất mà Brody đã trải qua chính là đưa Wladek sống sót thành công trong trại lao tác của quân SS. Ở lúc này, thì góc máy quay đã từ từ chịu bắt cận cảnh khuôn mặt méo mó của Wladek, để cảm nhận được sâu sắc nỗi đau phải cắn răng nhịn nhục trong trại lao động. Và, cũng từ cuộc sống thứ hai, đôi mắt của Wladek mới lại mở rộng hơn, để chứng kiến nhiều hơn sự vô nhân đạo của bọn SS. Có quá nhiều cảnh quay, không kinh dị nhưng tàn độc, đủ để người xem dợn sóng lưng bởi nỗi ám ảnh đã vượt qua sức tưởng tượng. Để trải nghiệm trọn vẹn cuộc sống thứ hai bằng con mắt cảm thụ nghệ thuật là rất khó bởi nó là phút giây tra tấn người xem bằng những trường đoạn tang tóc, và khi đã đủ đau khổ cùng với diễn viên khán giả mới nhận ra rằng nghệ thuật tâm lý trong phim không phải dành cho nhân vật trong phim. Sự trải nghiệm của tâm lý học là món quà dành cho khán giả, chính khán giả mới là người cảm nhận sâu sắc nhất những thay đổi xúc cảm trong chính trái tim mình khi theo dõi từng khung hình thay đổi, từng biến cố và hồi hộp khi Wladek đứng trước lằn ranh sự sống và cái chết trong trại lao động nô lệ.

Nhảy khỏi thân phận nô lệ để thành một người lưu vong là một lựa chọn khôn ngoan của Wladek. Đến lúc này, người ta mới có thể cảm nhận được hơi ấm của tình người và máy quay thì đã không còn chiếu cận cảnh những pha xử bắn, hành hạ người Do Thái hay vài phân khúc căng như dây đàn. Toàn thể bộ phim lại trở về với góc máy của cuộc sống thứ nhất, nhưng không gian đã rộng hơn và sự ngột ngạt đã gom về cho mỗi Wladek chứ không còn là một xã hội rộng lớn, bởi xã hội ấy đã bị hủy diệt mất rồi. Xuyên suốt cuộc hành trình lưu vong được chia thành hai bức tranh, chạy song song, thấy nhau nhưng không thể chạm vào nhau. Hơi ấm của tình người, của cô đào ca sĩ Dorota - bạn đồng nghiệp thân thiết của Wladek đã cứu sống thân thể gầy gò, bệnh tật của anh. Khốn khổ thay, cái đói làm người ta hóa rồ còn phú quý sinh lễ nghĩa, những gã thương nhân, cảnh sát Do Thái trong trại tập trung, vợ chồng ca sĩ Ba Lan, du kích quân lại là người cứu sống Wladek cả về thể xác lẫn tình cảm. Những đồng tiền và sự giao tế của họ đã cứu rỗi linh hồn khốn khổ, tiếp thêm chút sự sống cho Wladek lê hơi tàn của mình mà cố sống bất chấp việc họ sẽ gặp nguy hiểm đến tính mạng. 

Đời sống lưu vong đã cho Wladek một cơ hội để ngắm nhìn con đại bàng Ba Lan quẫy đạp để dành lấy tự do từ sự đổ nát. Sự tra tấn tâm lý lần này mới đến lượt anh, bức tranh thứ hai chính là sự đổ nát của Ba Lan, nơi anh không thể nào chạm đến được bởi bị đóng khung trong bức tranh thứ nhất, chỉ đau đớn nhìn ngắm mà không thể làm gì được. Chỉ khi gặp được Wilm Hosenfeld, thì hai bức tranh song song ấy mới hòa lại vào nhau. Wladek Szpilman thảm hại đang bị dày vò bởi căn bệnh vàng da và cái đói chạm mặt sĩ quan Wilm Hosenfeld, dũng cảm và trung thành, vừa bước ra từ trận chiến của đống đổ nát tại Ba Lan. Và may mắn thay, trước mặt Wladek không phải là một thằng SS điên dại, mà là một tín hữu trung thành với Công giáo và chủ nghĩa hòa bình, một sĩ quan xuất thân trong quân đội, yêu nước Đức thiết tha và ghê tởm hơi thở quốc xã, đại úy Wilm Hosenfeld.

 

“ Nước Đức muôn năm, nhưng không dành cho bọn Quốc xã”

Đó là câu nói mà đại tá von Stauffenberg trong bộ phim Điệp vụ Valkyrie đã từng nói, đại úy Hosenfeld cũng chính là đại diện cho câu nói ấy nhưng ông không cần phát biểu, và cũng không thỏ thẻ bất kỳ lời nói nào với Wladek. Hosenfeld đơn giản đã ngồi nhìn ngắm Wladek thăng hoa trong bản Ballade No.1 in G Minor, (Op. 23, No. 1) của Frédéric Chopin và tận tình giúp đỡ Wladek sống sót cho đến ngày gặp Hồng quân. Bấy nhiêu đó là đủ để gợi tả được Hosenfeld là ai, và con người này đã làm những gì để khiến cho tổng thống Ba Lan phải truy phong cho ông huân chương danh dự Thập chỉ huy Polonia Restituta danh giá nhất Ba Lan. Cuộc gặp mặt của Wladek và Hosenfeld, mọi sự tra tấn tâm lý, mọi thăng hoa và hồi hộp trong từng nhịp phim và tất cả những đớn đau, ám ảnh mà người xem lẫn nhân vật đã chịu đựng đã lùi lại, khung cảnh Hosenfeld gác tay bên cây đàn của Wladek là chút dịu dàng cuối cùng mà mọi kẻ bất hạnh mong muốn, để linh hồn mình thoát khỏi cái chốn man rợ của địa trần và im lặng tận hưởng giây phút bình yên trước khi ngày mới khắc nghiệt lại đến.

Có thể nói, The Pianist là bữa tiệc chiêu đãi của âm thanh và hình ảnh, từng nốt chạm tay vào phím đàn là từng điệu nhạc réo rắt của nhạc sĩ vĩ đại Frédéric Chopin, hơn 80% âm nhạc trong phim cả phần nhạc nền lẫn nhạc kết phim đều là âm nhạc của Chopin, nhẹ nhàng, dịu dàng và mang hồn cốt của âm nhạc giao hưởng hòa trộn vào tinh thần nghệ thuật của con người Ba Lan. Màu sắc âm nhạc ấy hóa đằm thắm và tiệp màu với hình ảnh của bộ phim, sắc màu trầm mặc là đủ để người ta cảm nhận được sự gai góc và ớn lạnh của cuộc sống tại địa ngục Warszawa. Một lần nữa, những ánh sáng tối màu luôn là mái nhà dành cho những khoảnh khắc đẩy cảm xúc dâng trào, ta sẽ không thấy dưới một lần góc máy quay sẽ bắt trọn vẹn khuôn mặt của Wladek mỗi khi màn đêm đổ sập như bức tường thủ đô. Những phút giây đó là những phút giây thắt tim, vì màn đêm ngày càng đóng lại nhanh hơn đồng nghĩa với việc cuộc hành trình kế tiếp của Wladek lại trở nên kinh khủng hơn, và chỉ khi anh ở trong màn đêm chung với “tên kẻ thù” Hosenfeld, sự bình an mới quay trở về trong tâm trí anh. 

Nghệ thuật Method acting đã đem lại cho Adrien Brody và những người bạn cùng đạo diễn Roman Polanski một bộ phim để đời, xứng đáng có tên trong ngôi đền danh vọng của những “historical movies” vĩ đại nhất. Và không chỉ là những lời ca tụng, The Pianist đã đã thắng cả ba hạng mục tại Lễ trao giải Oscar lần thứ 75, bộ phim đã giành được giải Đạo diễn xuất sắc nhất ( Roman Polanski), Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất ( Ronald Harwood) và Nam diễn viên chính xuất sắc nhất ( Adrien Brody) cũng như lọt vào danh sách 100 phim hay nhất thế kỷ 21. Một sự tưởng thưởng xứng đáng cho những đóng góp của các nghệ sĩ cùng tình yêu nghệ thuật chân thành của họ.

Lia Thia

 

Nhận xét